BURNING PASSION

Hãy sống trong đam mê! Hãy hát trong cuống nhiệt! Cùng tham gia Burning Passion để thỏa sức thể hiện tài năng của bạn! Bạn có thể hát hay, hát không hay lắm, hay dở ẹt. Tất cả đều có thể! Chỉ cần bạn muốn! Cùng tự tin bước vào sân khấu BURNING PASSION

BRAIN D10 ONLINE

Trí tuệ! Hiểu biết! Nhạy bén! Cùng tham gia cuộc đấu trí online tại hoisinhvienduoc10.co.cc để thỏa sức thể hiện khát khao chinh phục tri thức của bạn! 21h thứ 6 tuần này nhé!

BURNING PASSION

Hãy sống trong đam mê! Hãy hát trong cuống nhiệt! Cùng tham gia Burning Passion để thỏa sức thể hiện tài năng của bạn! Bạn có thể hát hay, hát không hay lắm, hay dở ẹt. Tất cả đều có thể! Chỉ cần bạn muốn! Cùng tự tin bước vào sân khấu BURNING PASSION

QUÁN QUÂN QUÂN CỜ

Bạn muốn thử sức, bạn muốn đấu trí. Bạn muốn thử thách! Cùng tham gia nhé!

BURNING PASSION

Hãy sống trong đam mê! Hãy hát trong cuống nhiệt! Cùng tham gia Burning Passion để thỏa sức thể hiện tài năng của bạn! Bạn có thể hát hay, hát không hay lắm, hay dở ẹt. Tất cả đều có thể! Chỉ cần bạn muốn! Cùng tự tin bước vào sân khấu BURNING PASSION

Hoạt động nhân ngày 8/3 của BCH HSV Khoa Dược

Để chào mừng ngày quốc tế phụ nữ 8/3 hội sinh viên khoa quyết định tổ chức những hoạt động thi thố tài năng! Đây là ngày con trai sẽ thể hiện với mọi người về hình ảnh đầy "đảm đang" của mình!
Thôi không dài dòng nữa!
Hoạt động 1: Thi nấu ăn: Mỗi đội thi gồm 3 thành viên sẽ chuẩn bị các nguyên liệu cần thiết để làm một món ăn. Các món ăn sẽ được chấm kèm với thuyết minh ngắn! Đội thi gồm 3 thành viên: Khoảng 2 nam, 1 nữ. Con gái ngồi "chỉ đạo", con trai làm! OK?
Giải thưởng nè: 300 ngàn lận (Giải nhất) 200 (giải nhì) và 100 (Giải 3)
Hoạt động 2: Thi tỉa hoa từ củ quả: Đề thi và rau củ sẽ do BTC quy định. Các bạn sẽ thực hiện sản phẩm trong một thời gian. Phần thưởng mỗi giải bằng một nữa như trên. Đội thi có cả nam lẫn nữ, nhưng nữ ít thôi nha! Cỡ một bạn là đủ rồi! (Không thôi nhiều đứa giành nhau sự quan tâm khổ lắm)
Ban giám khảo sẽ là các thầy cô các bạn nhân cơ hội này được giao lưu nữa!
Hoạt động diễn ra vào thứ 7 tuần này lúc 9h30!
Vậy hen! Đăng ký tham gia ngay cho mình.
Phan Cảnh Trình: 01266659656
_____Thay mặt BTK HSV Dược 2010____

Thời Sự Y Học số 214

Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh, Chuyên Khoa Nội Thương và Cấp Cứu

1/ CÁC LOẠI THUỐC ĐƯỢC THEO DÕI : VÌ NHỮNG NGUY CƠ NÀO ?
PHARMACOVIGILANCE. Cơ quan quản lý dược phẩm của Pháp (Afssaps : Agence française de sécurité sanitaire des produits de santé) mới đây đã trình bày một danh sách 77 loại thuốc và 12 lớp điều trị (classe thérapeutique) đặt dưới sự theo dõi. Điều này đã gảy nên một sự xao xuyến to lớn trong số những người tiêu thụ chúng và trong số những thầy thuốc kê toa những loại thuốc này. Việc thiếu những phân tích chính xác bởi giới hữu trách y tế, từng loại thuốc một, về các lợi ích, các nguy cơ, các thuốc thay thế, đã khiến các người Pháp ở trong tình trang chờ đợi.
“Đã có nhiều điều ngộ nhận sau khi danh sách này được công bố, GS Bernard Bégaud (dược sĩ, Bordeaux) đã xác nhận như vậy. Dân chúng đã hiểu rằng đó là danh sách các loại thuốc nguy hiểm và do đó ngạc nhiên tại sao chúng lại được thương mãi hóa.”
Tất cả các loại thuốc đều được theo dõi, chứ không phải chỉ có những thuốc trong danh sách được công bố. Mỗi khi một thầy thuốc được báo động về một tác dụng phụ không được liệt kê, không được biết rõ, không bình thường hay trầm trọng, ông ta có bổn phận phải thông báo điều đó với giới hữu trách y tế. Ngoài ra, vài loại thuốc đặc biệt được theo dõi do sự khám phá các tác dụng phụ nghiêm trọng và bất ngờ. Một cuộc điều tra sẽ cho phép kiểm tra xem các tai biến được quan sát đúng là có thể quy cho thuốc, xác định tần số xảy ra và áp dụng những biện pháp nếu cần (hạn chế thậm chí rút ra khỏi thị trường). Ngoài ra từ năm 2006, tất cả các thuốc đổi mới phải là đối tượng của một “ kế hoạch quản lý các nguy cơ” (plan de gestion de risques ), để biết rõ hơn những tác dụng phụ của chúng, vẫn còn không được biết nhiều vào lúc đưa ra thị trường.
Tuy nhiên cần phải biết rằng không hiện hữu thuốc hiệu quả nào mà không có những tác dụng phụ. Vụ Mediator minh họa sự khiếm khuyết của cảnh giác dược (pharmacovigilance) trong đất nước chúng ta vì lẽ đã phải cần đến 33 năm mới khám phá những tai biến tim do loại thuốc này. “Những vụ việc mới đây phải dạy cho các chuyên gia một bài học về tính khiêm tốn, GS François Chast, cựu chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa đã đánh giá như vậy. Họ phải học để biết xét lại phán đoán của mình khi càng ngày càng có những dữ kiện mới. Ngày nay, chính những công trình nghiên cứu dịch tễ dược quy mô lớn cho phép chúng ta tiến bước, bởi vì những điều ta không có thể thấy được trên một nhóm nhỏ, thí dụ ở mức bệnh viện hay một hiệu thuốc, lại trở nên có thể thấy được với quy mô hàng triệu toa thuốc.” Mặc dầu vậy, những quyết định về các loại thuốc đôi khi khó thực hiện vì lẽ phải cân bằng giữa những lợi ích của một dược phẩm với những nguy cơ của nó.
Như thế, theo GS Chast, phải phân biệt những loại thuốc làm thay đổi cuộc đời như Glivec (dược phẩm này mặc dầu nằm trong danh sách của Afssaps nhưng đã làm thay đổi tiên lượng của leucémie myéloide chronique) mặc dầu phải trả giá cho những tác dụng phụ, với những thứ thuốc có thể được rút ra khỏi thị trường ngày mai mà không tạo nên vấn đề gì đặc biệt, bởi vì chúng dành cho những bệnh hiền tính hay bởi vì có những giải pháp điều trị thay thế. Ý niệm dùng sai thuốc (mésusage) cũng sẽ phải phát triển trong tương lai. Đã có những cuộc bàn cãi sôi bỏng trước khi Di-Antalvic bị rút ra khỏi thị trường (một trong những thuốc giảm đau được kê toa nhiều nhất). Mục tiêu của sự cấm chỉ này của Châu Âu là nhằm ngăn ngừa những toan tính tự tử được gây nên bởi loại thuốc này, thường thấy ở Thụy Điển và Anh. Nhưng một trong những thuốc được đề nghị như là một giải pháp thay thế cho Di-Antalgic, Tramadol, cũng lại bị nhúng chàm bởi một nguy cơ quá liều.
Danh sách được công bố bởi Afssaps cũng chứa những điều không khớp sít. Thí dụ Levothyrox xuất hiện trên danh sách, thuốc này cần thiết để điều trị bệnh giảm năng tuyến giáp. Thế mà, GS Bernard Bégaud đã xác nhận như vậy, levothyrox tự bản thân nó không gây vấn đề gì, nhưng vấn đề là do các générique vì những lý do liều lượng.
12 DƯỢC PHẨM TRONG SỐ ĐƯỢC SỬ DỤNG NHIỀU NHẤT NẰM TRONG DANH SÁCH CỦA 77 DƯỢC PHẨM ĐƯỢC THEO DÕI TĂNG CƯỜNG
CHỐNG BÉO PHÌ :
Tên thuốc : Alli
Phòng bào chế : GSK
Được bán từ 2 năm nay.
Được bán dưới dạng thuốc viên 120 mg theo toa BS, dưới tên Xenical từ mười năm nay bởi Phòng bào chế Roche, Alli đã được thương mãi hóa và bán tự do vào tháng giêng bởi GlaxoSmithKline dưới dạng thuốc liều lượng nhỏ hơn (60mg). Giấy phép đưa ra thị trường đã được phát ở mức châu Âu và Pháp đã chống lại. Alli được chỉ định chống lại chứng béo phì và hoạt chất của nó là Orlistat. Nó có đặc điểm làm giảm sự hấp thụ các chất mỡ qua đường tiêu hóa.
Với việc rút ra khỏi thị trường rimonabant (Acomplia của Sanofi) vào tháng mười 2008 và của Sibutral (sibutramine của hãng Abbott) vào tháng giêng 2010, Alli là thuốc còn lại trong chỉ định này. Những tác dụng phụ của thuốc đặc biệt khó chịu : phân như dầu, tiêu chảy đôi khi có máu. Và Alli không được sử dụng trong trường hợp dụng thuốc kháng đông hay uống thuốc ngừa thai. “Một tần số gia tăng những trường hợp gãy xương đã được quan sát lúc một thử nghiệm lâm sàng nơi các thiếu niên”, tạp chí Prescrire đã báo cáo như vậy trong số tháng ba năm 2009. Tạp chí cũng ghi nhận rằng “những trường hợp hiếm hoi viêm tụy tạng và viêm gan đã được ghi nhận”.
Chính vì thế Alli được khuyên ngưng sử dụng trong trường hợp đau bụng mãnh liệt. Prescrire tóm lượt Alli như sau “thường gây khó chịu và không mang lại nhiệm màu”. Đúng là uống orlistrat trong 6 tháng, theo liều lượng 3 viên mỗi ngày, làm mất khoảng 3kg. Hiện nay thuốc trong tình trạng được theo dõi ở châu Âu do độc tính trên gan của nó. Giới hữu trách y tế đang suy xét lại lợi ích của thuốc so với những tác dụng phụ của nó.
CAI THUỐC LÁ
Tên thuốc : Champix, Zyban
Phòng bào chế : Pfizer, GSK
Được bán từ 4 và 10 năm nay.
Được thương mãi hóa ở Pháp từ tháng hai 2007, Champix (tartrate de varénicline) được kê đơn cho khoảng 300.000 người mỗi năm như là phương tiện hỗ trợ cho việc cai thuốc lá. Một sự theo dõi cảnh giác dược (pharmacovigilance) được tăng cường cua những trường hợp rối loạn tâm thần và những hành vi tự tử. Vào năm 2008, sau khi được đưa rất thị trường 14 tháng, 174 trường hợp tác dụng phụ nghiêm trọng đã được báo cáo, trong số đó 92 rối loạn tâm thần. Một bilan mới được dự kiến, và việc cứu xét gia hạn giấy phép cho lưu hành đang được tiến hành.
Trên thị trường từ 2001 cho cùng chỉ định, Zyban (bupropion) càng ngày càng ít được kê đơn hơn. Vào năm 2010, khoảng 20.000 người đã được điều trị bởi loại thuốc này. Afssaps báo cáo một sự theo dõi “thường quy” của Zyban, sau khi xảy ra những trường hợp rối loạn tâm thần, trầm cảm và tự tử. Trên thực tế, các thuốc ưu tiên một để cai thuốc lá là những chất thay thế nicotine (substitut nicotinique), Champix và Zyban là những thuốc dùng ưu tiên hai. Điều hướng dẫn cho sự lựa chọn của chúng ta giữa ba thứ thuốc, đó là tỷ suất lợi ích/nguy cơ nơi một bệnh nhân xác định, BS Patrick Dupont, tabacologue (bệnh viện Paul-Brousse, Villejuif) đã xác nhận như vậy. Thí dụ ta biết rằng varénicline hiệu quả hơn bupropion, nhưng cách tác dụng của chúng, các chống chỉ định và các nguy cơ tiềm tàng là khác nhau.” Theo ông ta, trong tình trạng kiến thức hiện nay, khi một điều trị cần thiết, phải ưu tiên các chất thay thế nicotine hơn. “Khi điều đó không thể thực hiện, Champix và Zyban có thể được kê toa, nhưng dưới sự theo dõi, thầy thuốc chuyên khoa thuốc lá, chủ trương cảnh giác bệnh nhân về những nguy cơ khả dĩ, đã kết luận như vậy. BS Chast thì nghiêm khắc hơn : “Trong chừng mực ta có những thuốc có hiệu quả và được dung nạp tốt, tôi không thấy Champix sẽ đóng vai trò gì trong kho vũ khí điều trị.”
BỆNH LOÃNG XƯƠNG SAU MÃN KINH
Tên thuốc Protelos
Phòng bào chế : Servier
Được bán từ 5 năm nay.
Đó là một loại thuốc của Servier, đã nêu lên nhiều nghi vấn. Được thương mãi hóa năm 2006, Protelos được kê đơn trong điều trị bệnh loãng xuống sau thời kỳ mãn kinh (ostéoporose post-ménauposique). Tạp chí Prescrire không mềm mỏng với renalate de strontium (hoạt chất của Protelos). “Trên thực tiễn, có quá nhiều ẩn số chung quanh những nguy cơ của strontium”, tạp chí này đã ghi nhận như vậy trong số tháng 7-8 năm 2005. Tờ báo viết thêm : “các nguy cơ không được biết và định lượng rõ” và kết luận rằng Protelos “không mang lại gì mới”.
Hiện nay, một cuộc điều tra cảnh giác dược đang được tiến hành sau khi có báo động về nguy cơ của hội chứng tăng nhạy cảm thuốc (syndrome d’hypersensibilité), một phản ứng dị ứng có thể nghiêm trọng. Từ khi được thương mãi hóa, 16 trường hợp đã được báo cáo trong Liên Hiệp châu Âu, trong đó 13 trường hợp ở Pháp. Và trong hai trường hợp, những tác dụng phụ này đã dẫn đến tử vong của bệnh nhân. Hội chứng tăng nhạy cảm thuốc có thể gây nên thương tổn của một hay nhiều cơ quan, đặc biệt là gan và thận. Trong những trường hợp được báo cáo, các triệu chứng xuất hiện trong 3 đến 6 tuần sau khi bắt đầu điều trị, dưới dạng nổi ban da, thường kèm theo sốt, một sự gia tăng thể tích của các hạch với tăng bạch cầu và những tác dụng lên phổi, gan và thận.
Trong hầu hết các trường hợp, tiến triển thuận lợi sau khi ngừng Protelos và sau khi cho corticostéroide. Tạp chí Prescrire do đó cho rằng khôn ngoan hơn là sử dụng biphosphonate, đã tỏ ra có hiệu quả và có những tác dụng phụ ít hơn.
ĐIỀU TRỊ MỤN
Tên thuốc : Minocycline
Phòng bào chế : Tonipharm
Được bán từ 28 năm
Là kháng sinh thuộc họ tétracycline, minocycline được thương mãi hóa từ nhiều thập niên. Minocycline được kê đơn chủ yếu để điều trị những bệnh nhiễm trùng, nhất là phổi và sinh dục và trong bệnh mụn (acné). Những tác dụng phụ, tuy rất hiếm nhưng nghiêm trọng, đã được liệt kê bởi một điều tra cảnh giác dược : viêm gan, hội chứng tăng nhạy cảm (syndrome d’hypersensibilité), được gọi là Dress (Drug Rash Eosinophilia and Systemic Symptoms), các bệnh tự miễn dịch. Những tai biến này rõ rệt thường xảy ra hơn với minocycline so với những cycline khác. “Các thầy thuốc bệnh ngoài da được cảnh giác rõ về những tác dụng phụ nghiêm trọng của minocycline, xảy ra chủ yếu trên da sắc tố. Thuốc này không còn là điều trị ưu tiên một của bệnh mụn nữa”, GS Pierre Wolkenstein, cựu chủ tịch của Hiệp hội về bệnh học ngoài da của Pháp đã xác nhận như vậy. Một sự tái đánh giá dược phẩm này đang được tiến hành.
Còn về isotrétinoine, một dẫn xuất của vitamine A, thuốc này dàng để điều trị bệnh mụn thể nặng. 4 générique đang được bán trên thị trường. Một sự theo dõi cảnh giác dược được tăng cường do các nguy cơ gây quái thai (risque tératogène) (dị dạng thai nhi khi thuốc được sử dụng trong lúc có thai) và những rối loạn tâm thần. Các trường hợp tự tử đã được ghi nhận. Isotrétinoine dùng bằng đường miệng là điều trị tốt nhất của bệnh mụn thể nàng. Các bệnh nhân sử dụng thuốc này rất được theo dõi trên bình diện y tế, GS Wolkenstein đã nhấn mạnh như vậy, đồng thời nhắc lại rằng bệnh mụn, nhất là thể nặng, có thể được kèm theo bởi chứng trầm cảm nhưng không có liên hệ gì với điều trị. Bilan cảnh giác dược phải được xét lại vào năm 2011, nhưng việc rút ra khỏi thị trường sẽ không được đặt ra, theo thầy thuốc chuyên khoa bệnh ngoài da.
CÁC DỊ ỨNG MÙA (ALLERGIES SAISONNIERES)
Tên thuốc : Primilan
Hãng bào chế : Pierre Fabre
Được bán từ 27 năm nay
Primalan được dành để điều trị triệu chứng những biểu hiện dị ứng như viêm mũi, viêm kết mạc hay mày đay. Hoạt chất là méquitazine, một antihistaminique de classe H1. Đó là một dược phẩm cũ (giữa những năm 1980), chỉ hiện diện trên thị trường Pháp, ở đây thuốc rất được sử dụng, nhất là nơi trẻ em. Thuốc được cho dưới dạng viên và sirop, với liều lượng được thích ứng tùy theo tuổi.
Có vài tác dụng phụ, như khả năng ngủ gà (somnolence), nhất là lúc bắt đầu điều trị, tùy theo tuổi của bệnh nhân, nhưng cũng có triệu chứng khô miệng, các rối loạn điều tiết, bí tiểu, bón, hồi hộp, co giật. Cũng có thể có vài phản ứng dị ứng hay một biểu hiện nhạy cảm ánh sáng (photosensibilisation). Thuốc này được bán với toa bác sĩ.
Primalan đang được theo dõi tăng cường bởi hệ cảnh giác dược sau khi có những ghi nhận về vài trường hợp rối loạn nhịp tim. Các antihistaminique thuộc loại này được biết là đã gây nên loại vấn đề này (ví dụ Teldane, một loại thuốc đã được rút ra khỏi thị trường vào năm 1997). Những antihistaminique thuộc thế hệ cũ có nhiều phẫn ứng phụ hơn là những thuốc mới. có thể đáp ứng cùng những chức năng điều trị.
CÁC RỐI LOẠN VỀ SỰ CHÚ Ý
Tên thuốc : Ritaline
Phòng bào chế : Novartis Pharma SA
Được bán từ 16 năm nay.
Thuốc này (hoạt chất là méthylphénidate) dành cho các trẻ em trên 6 tuổi. Thuốc này được chỉ định trong điều trị các rối loạn về sự chú ý và tình trạng tăng hoạt động (hyperactivité). Trong série américaine Desperate Housewives, một trong các nữ nhân vật chính trở nên phụ thuộc các viên thuốc Ritaline vốn được kê đơn cho trẻ em, một loại thuốc rất phổ biến bên kia Đại tây dương. Một công trình nghiên cứu được công bố trong Drug and Alcohol Dependence, năm 2006, cho thấy thuốc này đã được chuyển hướng chỉ định bởi 7 triệu người Mỹ trong mục đích tăng kích thích (se doper).Ở Pháp, Ritaline ít được kê đơn. Chính tính chất của loại thuốc này, amphétamine, tạo nên sự phụ thuộc. Ngoài sự nghiện ngập, sự quá liều của méthylphénidate có thể có những tác dụng lên hệ tim mạch. Chính vì vậy thuốc này được đặt dưới sự theo dõi tăng cường. Những khuyến nghị về sự sử dụng tốt loại thuốc này hiện đang được nghiên cứu.
CHỐNG ĐAU ĐỚN
Tên thuốc : Tramadol
Phòng bào chế : Nhiều công ty sản xuất các générique
Được bán từ hơn 10 năm nay.
Tramadol là một thuốc cô có những đặc điểm giảm đau. Opioide này ngày nay hiện diện trong khoảng 40 loại thuốc ở Pháp, được thương mãi hóa bởi nhiều phòng bào chế và hiện diện dưới dạng générique. Nhưng tramadol được vài bệnh nhân lạm dụng trong bối cảnh sử dụng ma túy. Chính vì vậy, năm 2009, các người Thụy Điển đã thực hiện một nghiên cứu nhận dạng những tác dụng phụ. Kết quả có 104 các quan sát về sự phụ thuộc thuốc (dépendance) trên 550 bảng thông báo về những tác đúng phụ. Những vấn đề thường xảy ra nhất liên quan đến những hội chứng cai thuốc (syndrome de sevrage), những trường hợp lạm dụng (usage abusif) và những trường hợp gia tăng liều lượng. Đối với hơn một nửa bảng thông báo, các rối loạn là trầm trọng và một nửa các bệnh nhân bị phụ thuộc thuốc đã được nhập viện để cai tramadol. Ở Pháp một sự theo dõi đang được tiến hành vì lẽ thuốc này gây phụ thuộc. Sau cùng Prescrire (tháng giêng 2011) ghi nhận những tác dụng phụ loại co giật, hạ đường huyết và những tương tác thuốc (interaction médicamenteuse). Thật đáng ngạc nhiên khi tramadol được giới thiệu như là thuốc thay thế Di-Antalvic sắp được rút ra khỏi thị trường.
SAU THỜI KỲ MÃN KINH
Tên thuốc : Biphosphonates
Phòng bào chế : nhiều
Được bán từ 10 năm nay
Trong một thời gian lâu, điều trị chứng mãn kinh đã phải nhờ đến các hormone. Mục tiêu là trước mắt chống lại những cơn bốc hỏa (bouffées de chaleur) và về lâu dài chống lại chứng loãng xương. Ở Hoa Kỳ, sau khi khám phá một nguy cơ gia tăng, nhất là ung thư vú và các bệnh tim, các toa thuốc đã bị chậm lại. Chính vì thế trong khung cảnh ngăn ngừa các gãy xương, những điều trị chống bệnh loãng xương bằng biphosphonates đã phát triển rộng rãi. Rất nhiều phụ nữ vào lúc mãn kinh sử dụng những thuốc này. Khoảng một chục loại thuốc khác nhau hiện có trên thị trường.
Những thuốc này không phải là không có tác dụng phụ. Các trường hợp viêm thực quản đã được ghi nhận nơi các phụ nữ không tôn trọng cách sử dụng. Nhưng, nghiêm trọng hơn, những trường hợp hoại tử xương (ostéonécrose) của xương hàm đã được ghi nhận. Mức độ nghiêm trọng của biến chứng này giải thích tại sao tất cả những thuốc thuộc họ này được theo dõi tăng cường từ năm 2006. Ngoài ra, biến chứng này biện minh rằng chỉ những phụ nữ có nguy cơ cao bị gãy xương mới nhận điều trị này.
NGHIỆN RƯỢU
Tên thuốc : Equanil
Phòng bào chế : Sanofi-Aventis (và générique: meprobamate Richard)
Được bán từ 50 năm nay
Equanil từ lâu đã được sử dụng để điều trị những triệu chứng khác nhau: lo âu, chuột rút, mất ngủ.. Vào năm 2006, các chỉ định đã được giới hạn vào việc giúp đỡ cai rượu, “khi tỷ suất lợi ích/nguy cơ của các benzodiazépine không có vẻ thuận lợi.” Số các viên thuốc mỗi hộp đã được thu giảm bởi vì thật vậy Equanil là nguồn gốc của những trường hợp tử vong do dùng quá liều, nhất là nơi những người tình nguyện. “Dầu những tình huống thuốc này được sử dụng như thế nào đi nữa, méprobamate có một cán cân các lợi ích/các nguy cơ bất thuận lợi”, tạp chí Prescrire vào tháng hai 2010 đã đánh giá như vậy, đồng thời ủng hộ việc rút thuốc này ra khỏi thị trường. “Equanil có hiệu quả thấp, và những trường hợp quá liều là nguy hiểm. Ta cần coi chừng nhất là khi chứng nghiện rượu mãn tính là một tình huống trong đó sử dụng sai thuốc là một quy tắc của cuộc sống”, GS Chast, thuộc viện hàn lâm quốc gia dược đã nói thêm vào như vậy. Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần học và addictologie (Paris VIII), xác nhận rằng quả thật méprobamate không có vai trò trong điều trị cai rượu, vì lẽ độ dung nạp của nó thấp hơn độ dung nạp đối với benzodiazépine, những thuốc chuẩn trong điều trị này. Hồ sơ phải được xem xét lại vào tháng tư năm nay.
ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
Tên thuốc : Lantus, Actos
Hãng bào chế : Sanofi Aventis, Takeda
Được bán từ 8 và 9 năm nay
Lantus là một insuline. Tác dụng của nó được triển khai trong 24 giờ. Nơi những người bị bệnh đái đường phụ thuộc insuline (loại 1), Lantus được kết hợp với một mũi tiêm insuline có tác dụng nhanh thực hiện trước mỗi bữa ăn, nó cho phép kéo dài những nồng độ đường huyết trong cả ngày và làm giảm nguy cơ bị hạ đường huyết vào ban đêm. Việc sử dụng Lantus trong những trường hợp đái đường loại 2 (đái đường béo) thường thấy nhưng những lợi ích mang lại ít hơn. Lantus được theo dõi từ năm 2009, hai công trình nghiên cứu Châu Âu cho thấy rằng Lantus có thể là nguồn gốc của một sự gia tăng các ung thư (đái đường loại 2). Hiệu quả của thuốc trong sự cân bằng của bệnh đái đường loại 1 không xét lại việc sử dụng thuốc trong trường hợp này. Còn Actos, một thuốc hạ đường huyết, tương tự với Avandia, thuốc được rút ra khỏi thị trường vào tháng 11 vừa qua và một sự gia tăng nguy cơ tim mạch. Một công trình nghiên cứu dịch tễ học đã cho thấy rằng Actos làm gia tăng nguy cơ ung thư bàng quang, nguy cơ được xác nhận bởi một thí nghiệm nơi chuột. Cũng làm dễ sự xuất hiện phù, việc sử dụng nó phải được dành cho những trường hợp đặc biệt. Cũng như đối với Lantus, Actos hiện nay được kê đơn rộng rãi.
NGHIỆN THUỐC NGỦ
Tên thuốc : Rohypnol
Hãng bào chế : Roche
Được bán từ 20 năm nay, là các thuốc ngủ trong số được ưa chuộng nhất, Rohypnol và Stilnox (Sanofi-Aventis) đã được đưa ra thị trường cách nay hơn 20 năm. Rohypnol, thuộc họ các benzodiazépines như thí dụ Valium, chịu “một điều tra cảnh giác nghiện (addictovigilance) về những trường hợp lạm dụng, phụ thuộc và sử dụng đổi hướng từ năm 2000.”, Afssaps đã xác nhận như vậy. Rohypnol từ lâu đã là loại thuốc được chuyển hướng nhất bởi các người nghiện ma túy, điều này khiến phải biến đổi những điều kiện kê toa và phát thuốc vào năm 2000. Stilnox cũng chịu cùng sự theo dõi từ năm 2000. Hồ sơ của hai loại thuốc này phải được xem lại bởi giới hữu trách y tế trong những tháng đến. Đối với GS Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần học và addictologie (Paris VII), những thuốc an thần này có thể gây nên tình trạng say và phụ thuộc. “Ngày nay, trong sự quản lý các rối loạn giấc ngủ, một điểm tạo nhất trí ; không có chỉ định cho thuốc ngủ lâu dài”, thầy thuốc tâm thần này đã nhấn mạnh như vậy. Theo ông, các thầy thuốc, kể cả những thầy thuốc bệnh viện có khuynh hướng kê đơn quá dễ dàng các thuốc ngủ. Và một sự cai thuốc có thể tỏ ra phục tạp với sự theo dõi y khoa.
ỨC CHẾ SỰ SINH SỮA
Tên thuốc : Parlodel
Phòng bào chế : Novartis Pharma
Được bán từ 23 năm nay.
Parlodel (bromocriptine) là một loại thuốc được kê đơn trong 3 tình huống : ức chế sự sinh sữa đối với những phụ nữ vừa mới sinh và không muốn cho con bú, nhưng cũng được chỉ định trong bệnh Parkinson và vài adénome. Thuốc này dưới sự theo dõi tăng cường chỉ trong trường hợp kê đơn cho những phụ nữ trẻ vừa mới sinh. Đối với hai chỉ định kia thì không có vấn đề. Được dùng trong vài ngày ngay sau khi sinh, Parlodel ức chế sự sinh sữa. Nhưng thuốc này, được kê đơn từ lâu nơi sản phụ trẻ, làm gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu não, xảy ra sau khi sinh. “Các phụ nữ có thai và trong thời kỳ hậu sản có một sự tăng hoạt tính mạch máu (hyperactivité vasculaire), GD Jean –Louis Montastruc (Toulouse) đã giải thích như vậy. Chúng tôi đã nhận thức cách nay vài năm rằng dược phẩm này chịu trách nhiệm các tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim nơi các sản phụ trẻ. Mặc dầu biến cố này là hiếm hoi, nhưng nghiêm trọng. Đối với chúng tôi tỷ suất lợi ích/nguy cơ không thuận lợi trong chỉ định ức chế sự sinh sữa. Ở CHU de Toulouse, các thầy thuốc không còn kê toa Parlodel cho các phụ nữ không muốn cho con bú nữa.” (LE FIGARO 14/2/2011)
2/ TẠI SAO VÀI LOẠI THUỐC BỊ RÚT RA KHỎI THỊ TRƯỜNG ?
G.S Georges Hazebroucq, Membre de l’Académie nationale de pharmacie
Trở lại những vụ việc của 70 năm qua có thể cho phép chúng ta đưa ra vài yếu tố trả lời. Dĩ nhiên chúng ta loại trừ trong bài viết sau đây tất cả những gì có liên quan đến những dược phẩm giả mạo và tất cả những gì liên quan đến sự lạm dụng (sử dụng ngoài những chỉ định chính thức).
Câu chuyện của Stalinon là vô cùng bổ ích. Vào năm 1952, phòng bào chế bé nhỏ Feuillet đã thương mãi hóa ở Pháp một dẫn xuất hữu cơ của thiếc, Stalinon. Tất cả các giai đoạn đưa đến sự thương mãi hóa này là nhiều sai trái : các thử nghiệm lâm sàng hầu như không có, những điều kiện chế tạo bất bình thường của các viên thuốc và sự kiểm soát chất lượng chỉ có tính cách tượng trưng. Bilan : một trăm người chết và nhiều người bị ngộ độc. Điều này dần dần đã dẫn đến sự siết chặt lại quy chế thương mãi hóa ở tất cả các giai đoạn. Vào năm 1957, việc đưa ra thị trường thalidomide, thuốc được sử dụng như là chất an thần và dùng để điều trị những triệu chứng nôn mửa thai nghén, đã dẫn đến sự sinh ra đời những đứa bé không có cánh tay và (hoặc) không có cẳng chân, khi thuốc được cho trong những tuần lễ đầu tiên của thời kỳ thai nghén. Những thử nghiệm được gọi là “sinh quái thai” (tératogenèse) được thực hiện trên động vật, đã được tăng cường từ đó.
Từ những năm 1950, vài vụ việc khác, luôn luôn gây đau lòng, do các độc tính khó phát hiện, đã dẫn đầu trang thời sự : vụ distilbène, dẫn xuất tổng hợp của một kích thích tố nữ, vốn cần thiết trong những giai đoạn cuối của ung thư tuyến tiền liệt, tuy nhiên vào thời kỳ đó lại được bán cho một chỉ định nơi người đàn bà có thai. Sau đó những đứa con gái của các phụ nữ có thai đã bị ung thư âm đạo và mắc phải chứng vô sinh. Mới đây hơn, rofecoxib (Vioxx) cũng đã khiến nói nhiều về nó : chất chống viêm không phải stéroide (AINS) này đã gây nên một sự gia tăng nguy cơ tim mạch, vả lại được nhận thấy sau này đối với những thuốc chống viêm khác.
NHỮNG THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG TỐN KÉM
Ta có thể còn kéo dài danh sách này, nhưng phải ghi nhận rằng các yêu cầu của các cơ quan đăng ký gia tăng hầu như sau một loại thuốc bị rút ra khỏi thị trường. Công nghiệp dược phẩm chi phí ngày càng nhiều hơn để thương mãi hóa những đòi hỏi một đáp ứng ngày càng nhanh đối với các đăng ký để làm sinh lợi càng nhanh càng tốt vốn đầu tư. Công nghiệp dược phẩm đưa ra nhận xét rằng mỗi ngày hàng triệu người chết có thể tránh được nhờ các loại thuốc. Điều này phải được xét đến khi ta nói về các tai biến điều trị.
Thật vậy, những thử nghiệm lâm sàng, được đòi hỏi để thương mãi hóa, rất là phức tap, rất tốn kém và thường rất hiệu năng. Tuy nhiên chúng có một hạn chế : đó là những thử nghiệm lâm sàng này được thực hiện trên những nhóm người “được nhắm đích” (ciblée) đặc biệt được tuyển mộ cho mỗi thử nghiệm. Điều đó là logic, nhung sự xuất hiện thuốc trên thị trường có thể kèm theo một sự gia tăng to lớn số những người tiêu thụ, còn dùng những loại thuốc khác, do đó xảy ra những tương tác thuốc thường không thể dự kiến được, và (hoặc) có những bệnh lý khác nhau…vậy ta không thể dự kiến tất cả. Câu trả lời của các cơ quan và những nhà công nghiệp để phát hiện sớm những nguy cơ bất ngờ là một bảng sao kê đầy đủ và phân tích tất cả những tác dụng phụ (cảnh giác dược : pharmacovigilance). Trong vài trường hợp, ta thêm vào trong bảng sao kê một kế hoạch quản lý các nguy cơ được thiết lập theo những dự kiến của độc chất học động vật (toxicologie animale) và những tác dụng được nêu lên trong những thử nghiệm lâm sàng.
Vậy câu trả lời cho câu hỏi được đặt ra là các thuốc được kê đơn và sử dụng tốt là cần thiết, những nguy cơ zero thì không hiện hữu. (LE FIGARO 15/11/2010)
GHI CHÚ :
- Thalidomide : thuốc được sử dụng do những tính chất chống viêm và làm suy giảm miễn dịch. Trong những năm 1960, thalidomide đã được sử dụng như là thuốc ngủ (hypnotique). Được kê toa cho nhiều phụ nữ có thai, thalidomide gây nên, nơi các trẻ sơ sinh, những quái thai giống chó biển (phocomélie) (dị dạng của các chi, các bàn tay và bàn chân được gắn trực tiếp vào thân mình). Hiện nay thalidomide được chỉ định chủ yếu trong điều trị bệnh hủi, lupus érythémateux disséminé, aphtes multiples biến chứng của bệnh SIDA.Thalidomide cũng được chỉ định khi có những phản ứng thải bỏ ghép
- Pharmacovigilance (cảnh giác dược) ngành y học có liên hệ đến sự theo dõi các tác dụng không được mong muốn của các loại thuốc, cũng như những kiến thức, các phương pháp và những phương tiện cần thiết cho sự thực hiện việc theo dõi này. Phần lớn các tác dụng phụ thường đuợc khám phá khi ta trắc nghiệm các loại thuốc trước khi thương mãi hóa chúng. Sự thu thập các dữ kiện được đảm bảo bởi các thầy thuốc kê toa và các dược sĩ. Những người này được yêu cầu báo cáo những bất thường mà họ chứng thực và những bất thường được bày tỏ bởi các bệnh nhân.
3/ BỆNH CHAGAS
Carlos Chagas, xuất thân từ giới bình dân, là một thầy thuốc người Ba Tây. Một phần lớn của cuộc đời nghề nghiệp của ông sẽ dành cho cuộc chiến đấu chống lại các bệnh nhiệt đới. Chính trong một sứ mạng công tác nơi một ngôi làng nhỏ, trong những điều kiện khó khăn, mà ông đã khám phá một dạng của bệnh trùng mũi khoan (trypanosomiase) hay bệnh gây ngủ (maladie du sommeil) mang tên ông. Ông là Bộ trưởng y tế và thành lập một ghế giáo sư về các bệnh truyền nhiễm ở Đại học Rio.
Carlos Ribero Chagas, sinh năm 1879, là con của một nhà trồng cà phê Ba tây. Bố của ông qua đời khi cậu bé Carlos chỉ mới 4 tuổi. Mẹ ông hy vọng thấy ông trở thành kỹ sư và đã ghi tên ông theo học trường kỹ sư hầm mỏ. Ông hồi phục sau một cơn bệnh beriberi nơi nhà chú ông là thầy thuốc và do đó ông quyết định noi theo gương của chú mình. Ông vào đại học y khoa ở Rio và tốt nghiệp vào năm 23 tuổi. Bị lôi cuốn bởi thực hành lâm sàng, ông từ chối một công việc trong một xưởng mẫu để có thể làm việc trên thực địa. Nhưng vì cuộc sống khó khăn nên ông chấp nhận một sứ mệnh công tác tư nhân để chống lại bệnh sốt rét đang giết hại các công nhân của cảng Rio. Thay vì sử dụng kỹ thuật đã được xác lập để tiêu diệt các ấu trùng, ông sử dụng pyrèthre để khử khuẩn các ngôi nhà và thu được một thành công gây ngạc nhiên. Công trình này sẽ là căn bản cho cuộc chiến đấu chống lại bệnh sốt rét, và sẽ được dùng, 40 năm sau, để phát triển những thuốc diệt côn trùng mới.
CÔNG TRÌNH NHIỀU VIỆC CÓ MỘT KHÔNG HAI
Vào năm 1906, ông trở về với người bạn thận của mình Oswaldo Goncalves, ở viện mang tên ông ta, mặc dầu Chagas phải đi công tác đôi khi nhiều năm. Vào năm 30 tuổi, Chagas có mặt trong ngôi làng Lassance, nơi đây các nhân viên hỏa xa đang bị tấn công bởi bệnh sốt rét, đến độ ảnh hưởng lên việc xây dựng một đường xe lửa. Ông làm việc ở đó 2 năm, sống trong một toa tàu, được dùng làm nơi khám bệnh, đồng thời là phòng xét nghiệm và phòng ngủ. Trên thực tế, vài ngày sau khi ông đến, ông quan sát thấy một số lớn các côn trùng triatome, hút máu, đầy dẫy trên các bức thành của các túp lều. Trong ruột của các côn trùng này, ông quan sát thấy một trùng roi (flagellé), mà ông cho đó là một giai đoạn tiến triển của trùng mũi khoan (trypanosome). Chagas cho phép các con rệp bị nhiễm bởi ký sinh trùng muỗi khoan sống nhờ hút máu các con khỉ ouistitis và 20 ngày sau đó, ông tìm thấy trùng mũi khoan (trypanosome) trong máu của các con khỉ này, rồi của một con mèo. Ông nhận diện ký sinh trùng mới này và đề nghị gọi là Trypanososma cruzi để vinh danh người bạn của ông và cũng là giáo sư, Osxaldo Cruz. Vào năm 1909, chính trong máu của Bérénice, cô gái nhỏ 3 tuổi sống với con mèo đực, ông đã khám phá lần đầu tiên ký sinh trùng nơi người. Ông thực hiện hơn 100 giải phẫu tử thi trong ngôi làng Lassance, ghi chú những triệu chứng tiêu hóa, tim và thần kinh và gợi ý con tatou như là ổ chứa (réservoir) của trypanosome.
Công trình của Chagas là độc nhất vô nhị bởi tính chất nhiều công việc (caractère multitache). Chỉ một mình ông, ông khám phá đồng thời sự nhiễm trùng, tác nhân trước cả tính chất gây bệnh của nó, vecteur truyền bệnh, vài ký chủ réservoir, các biểu hiện và dịch tễ học của nhiễm ký sinh trùng này.
ĐƯỢC QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ CÔNG NHẬN
Vào năm 31 tuổi, Viện Hàn Lâm y khoa Ba Tay đã bầu ông làm hội viên đặc biệt, đây là việc làm ngoại lệ bởi vì không còn nhiệm sở trống. Hai năm sau, một jury quốc tế chọn ông để nhận Giải Scaudinn, được trao mỗi 4 năm cho công trình tốt nhất thế giới trong lãnh vực y khoa nhiệt đới. Mặc dầu có những ứng viên khác có uy tín, như Paul Ehrlich hay Emile Roux. Chagas đã được đề nghị hai lần để nhận giải Nobel, vào năm 1913 và 1921 nhưng cuối cùng không được chọn, có lẽ do sự chống đối của các đồng nghiệp người Ba tây của ông. Ở tuổi 42, ông trở thành người Ba Tây đầu tiên nhận tước hiệu Tiến sĩ danh dự (Docteur Honoris causa) của Đại học Havard rồi của Đại học Paris. Vào lúc Oswaldo Cruz qua đời năm 1917, Chagas tiếp tục lãnh đạo viện của người bạn quá cố, ở Manguinhos, nhưng điều này không ngăn cản ông đáp ứng mong muốn của chính quyền Ba Tây, đòi hỏi ông quản lý dịch bệnh Tây Ban Nha và giao ông chức vụ Bộ trưởng y tế trong 5 năm. Ông chống lại không những bệnh lao mà còn bệnh hủi và những bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục. Ông xây dựng các trường mẫu giáo và thành lập một ghế giáo sư về các bệnh nhiệt đới ở Đại học Rio.
Lúc được 55 tuổi, ông mất vào lứa tuổi còn đầy sức lực do một cơn đau tim. Cuộc đời tư của Chagas, ta không biết rõ, nhưng hai trong số những người con trai của ông đã trở thành những thầy thuốc lỗi lạc. Bérénice, đứa bé đã làm ông nổi tiếng, vào năm 1961 vẫn còn sống, và sự nghiên cứu trường hợp của cô gái này đã chứng minh rằng bệnh Chagas có thể tồn tại một cách mãn tính trong nửa thế kỷ. (LE GENERALISTE 17/2/2011)
GHI CHÚ :
- Trypanosomose humaine africaine hay trypanosomiase hay maladie du sommeil : bệnh do ký sinh trùng, được gây nên bởi một động vật đơn bào, có roi (flagellé), trypanosome. Ký sinh trùng xâm nhập máu, các hạch bạch huyết, tim rồi não bộ, gây nên những rối loạn thần kinh và tâm thần có mức độ nghiêm trọng tăng dần. Bệnh ngủ này được truyền cho người do vết chích của một con ruồi, được biết dưới tên ruồi tsé-tsé.
- Pyrèthre : cây cúc hoang dã của vùng đông Á, cung cấp một thuốc trừ sâu mạnh và không độc cho người, poudre de pyrèthre.
- Ouistiti : con khỉ nhỏ sống trên cây của châu Mỹ nhiệt đới
4/ SỰ SỢ HÃI PHÁT SINH TỪ HẠNH NHÂN
Đó là một trường hợp rất hiếm hoi, một phụ nữ không còn biết sợ hãi là gi. Được biết bởi công chúng bằng những chữ đầu, “S.M” không có khả năng nhận biết sự sợ hãi trên các gương mặt và có một thái độ luôn luôn thân thiện và tin cậy đối với những người khác. Tệ hại nhất, được đặt trong những tình huống nguy hiểm, như tạp chí Current Biology đã báo cáo, cô ta vẫn thản nhiên. Trong các ngôi nhà ma của tết hội chợ, cô ta có thể hướng dẫn một nhóm người khiếp sợ đến lối ra mà không hề run rẩy và còn mân mê các chú rắn một cách hiếu kỳ. Bị tấn công nhiều lần bằng dao và hỏa khí, nhưng cô S.M đã không còn giữ một kỹ niệm bị chấn thương tâm thần nào. Cô bị một sự phá hủy gần như duy nhất của hạnh nhân (amygdale), nhân đôi ở trung tâm não bộ, phụ trách khởi phát cảm giác sợ hãi. Cuộc đời của cô gái người Mỹ 44 tuổi này, được mô tả bởi nhà sinh-thần kinh (neurobiologiste) Antonio Damasio và các đồng nghiệp người Mỹ, cho thấy tất cả những khó khăn khi sống không sợ hãi. Thật vậy, việc không có khả năng cảm nhận cảm xúc này, do một sự vôi hóa bệnh lý của hạnh nhân trong thời thơ ấu, đã ngăn cản cô tránh những tình huống rất nguy hiểm, các nhà nghiên cứu đã đánh giá như vậy. Họ ngạc nhiên khi thấy rằng cô ta đã có thể sống sót dài lâu đến như vậy. Điều lạ kỳ, S.M không ý thức về tình trạng mất năng lực của mình và không biết tại sao cô ta lại lôi kéo nhiều sự chú ý đến như vậy. May mắn thay, cô vẫn có thể cảm thấy những xúc cảm khác như buồn, vui, giận, ghê tởm hay ngạc nhiên, điều này gợi ý rằng hạnh nhân không cần thiết trong việc phát khởi những tình cảm này, dầu có bằng cớ chứng tỏ rằng hạnh nhân có tầm quan trọng sinh tử đối với loài người. (SCIENCES ET AVENIR 2/2011)Đọc thêm :
5/ MỘT TÁC DỤNG CÓ LỢI LÊN SỨC KHỎE TIM CỦA CÁC PHỤ NỮ
Kiểm soát một cách tối ưu huyết áp có thể mang lại một sự giảm quan trọng số các bệnh tim không phải do di truyền nơi các phụ nữ tuổi trung niên.
Để có một ý tưởng tốt hơn về các nguy cơ cao huyết áp liên kết với giới tính, một nhóm nghiên cứu, dưới sự chỉ đạo của GS Jan Staessen (KUL), đã phân tích những trị số huyết áp, được đo ngoại trú hay một cách quy ước, của 9.357 người (tuổi trung bình 52,8, 47% phụ nữ), được tuyển mộ trong 11 nước. Suốt trong thời kỳ theo dõi (11,2 năm), 1.245 người tham gia đã chết, trong đó 472 do một bệnh tim mạch. Tổng cộng, các biến chứng chết người và không chết người hợp lại, các nhà nghiên cứu đã đếm được 1.080 biến chứng tim mạch, trong đó 525 biến chứng tim và 458 tai biến mạch máu não. Công trình nghiên cứu được công bố trong một ấn bản ngày 24/1 của Hypertension.
NHỮNG KHÁC NHAU GIỮA ĐÀN ÔNG-ĐÀN BÀ
Nơi các người đàn ông cũng như các phụ nữ, huyết áp thu tâm là một yếu tố tiên đoán của tiến triển trong tương lai. Nếu ta xét đến nguy cơ tuyệt đối của cao huyết áp lên những biến chứng tim mạch, các kết quả cho thấy rằng nguy cơ này là cao hơn nơi đàn ông so với nơi phụ nữ. Nhưng khi ta khảo sát mối liên hệ giữa huyết áp và biến chứng tim mạch, mối tương quan lại cao hơn nơi phụ nữ so với đàn ông.
“Đối với cùng một sự gia tăng huyết áp, về tỷ lệ, các phụ nữ có khoảng hai lần biến chứng hơn so với đàn ông, GS Staessen đã xác nhận như vậy. Nếu ta nắm vấn đề ở đầu kia hay nếu ta, nói một cách khác, bắt đầu điều trị các phụ nữ tốt hơn điều ta đang làm hôm nay, điều đó muốn nói rằng ta sẽ được nơi các phụ nữ này, về mặt tỷ lệ, một kết quả điều trị tốt hơn so với nơi các người đàn ông.”
CHÚ Ý SỰ KHÔNG TÍCH CỰC ĐIỀU TRỊ !
Sự kiện nguy cơ tuyệt đối bị các biến chứng tim mạch nơi các phụ nữ thấp hơn so với đàn ông đã thường khiến, theo Jan Staessen không đề nghị gì cả cho các phụ nữ. “Điều đó có nghĩa là có một khả năng hành động to lớn để đảm bảo việc phòng ngừa tim mạch nơi phụ nữ. Thật vậy, huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất.” Kiểm tra huyết áp một cách thích đáng và điều trị cao huyết áp có thể ngăn ngừa một số lớn các biến chứng tim mạch nơi phụ nữ, điều này chỉ có thể góp phần mang lại một chất lượng sống tốt hơn.
Thầy thuốc chuyên khoa tim mạch của Louvain (Bỉ) ngoài ra đưa ra nhận xét rằng việc kiểm soát tối ưu huyết áp đã được khuyên cho một lứa tuổi trung niên và ngay cả nơi các phụ nữ trẻ hơn. Cao huyết áp bắt đầu sớm trong đời sống. Nếu ta đợi cho đến cái lúc các mạch máu cứng lại, thì đã quá muộn rồi.” Những khuyến nghị hiện nay về huyết áp nhằm những trị số ngưỡng 140/90mmHg. Con số này có thể áp dụng cho tất cả các nhóm tuổi, đối với Jan Staessen, điều này chẳng logic chút nào “xét vì có lẽ ta sẽ thu được những kết quả tốt hơn nếu ta điều trị các phụ nữ trẻ bắt đầu từ những trị số thấp hơn”. Để đo huyết áp trong 24 giờ, trị số ngưỡng được khuyến nghị là 130/75 mmHg. (LE JOURNAL DU MEDECIN 8/2/2011)
6/ NHỮNG VACCIN NÀO LÀ THẬT SỰ CẦN THIẾT CHO CÁC TRẺ EM ?
Nước Pháp là một trong những nước hiếm khiến người ta tin rằng vài vaccin là hữu ích hơn những vaccin khác. Không đúng là như vậy : tất cả những vaccin được khuyến nghị trong lịch trình tiêm chưa đều hữu ích ngang nhau. Thật vậy, một vaccin chỉ được khuyến nghị nếu nó chứng tỏ được tính hiệu quả, tính vô hại và lợi ích của nó trên bình diện y tế công cộng, không những để bảo vệ cá nhân mà còn tập thể nữa. Sau đây là những yếu tố cần biết để hiểu lợi ích của việc tiêm chủng chống lại những bệnh sau đây là lợi ích nào.
BỆNH BẠCH HẦU (DIPHTERIE) đã hầu như biến mất trên đất nước chúng ta nhỡ tiêm chủng nhưng tái xuất hiện nếu ta ngừng chích. Điều đó được quan sát trong các nước của Liên Bang Xô Viết trước đây. Cũng có thể bị mắc bệnh khi đi du lịch trong những nước đã không loại bỏ nó.
BỆNH UỐN VÁN có réservoir vi khuẩn trong đất. Tiêm chủng là phương tiện duy nhất để chống lại căn bệnh nghiêm trọng này.
BỆNH BẠI LIỆT đã biết mất trên đất nước chúng ta nhưng những ổ bệnh vẫn tồn tại trên thế giới (trận dịch mới đây ở Tadjikistan và ở Congo). Vậy nó có thể tái xuất hiện.
BỆNH HO GÀ là một bệnh có tiềm năng gây chết người ở nhũ nhi. Anh, Thụy Điển, Nhật, sau khi đã ngừng tiêm chủng vì bị chỉ trích, đã quan sát thấy một sự gia tăng mạnh những trường hợp tử vong do căn bệnh này và đã phải tiêm chủng trở lại.
“HEAMOPHILUS INFLUENZAE ” là một vi khuẩn chịu trách nhiệm 400 đến 500 trường hợp viêm màng não mỗi năm nơi các trẻ nhỏ tuổi. Sự tiêm chủng đã hầu như làm biến mất căn bệnh này, nhưng vi trùng vẫn còn đó.
VIÊM GAN B chịu trách nhiệm xơ gan và ung thư gan. Trẻ nhỏ, ít có nguy cơ, dễ tiêm chủng hơn thiếu niên chịu nguy cơ ngay những giao hợp đầu tiên. Vaccin, khi được tiêm khi còn trẻ, rất có hiệu quả, mang lại một sự bảo vệ lâu dài và không có những tác dụng phụ. BỆNH SỞI, trước khi được tiêm chủng, đã gây nên nhiều trường hợp nhập viện, nhiều trăm trường hợp viêm não mỗi năm và khoảng 50 trường hợp tử vong. Từ năm 2008, do không được tiêm chủng đủ, hơn 5000 trường hợp đã được khai báo, 1/3 đã được nhập viện và 4 tử vong đã được báo cáo. Không tiêm chủng cho con mình sẽ làm nó bị bệnh sởi thể nặng hơn vào tuổi trưởng thành.
RUBEOLE là một bệnh thường hiền tính, ngoại trừ đối với phụ nữ có thai.Với đối tượng này, nhiễm trùng có thể gây nên thai tử hay những dị dạng nghiêm trọng.
BỆNH QUAI BỊ là nguyên nhân dẫn đầu của viêm màng não nơi trẻ em, và, sau tuổi dậy thì, bệnh có thể ảnh hưởng các tinh hoàn và buồng trứng và gây nên vô sinh.
PHẾ CẦU KHUẨN (pneumocoque) chịu trách nhiệm khoảng 200 trường hợp viêm màng não nặng mỗi năm (10% tử vong, 50% di chứng) nơi các trẻ em.
MÀNG NÃO CẦU KHUẨN C (Méningocoque C) chịu trách nhiệm khoảng 200 trường hợp viêm màng não và khoảng 30 trường hợp tử vong. Vi trùng này có thể giết một đứa bé lành mạnh chỉ trong vài giờ. Vài vaccin chỉ được khuyến nghị cho một bộ phận các trẻ em.
BCG được khuyến nghị đối với những trẻ em có nguy cơ : chủ yếu là những trẻ đến từ những nước mà ở đó bệnh lao thường xảy ra và những trẻ sống ở Il-de-France.
PAPILLOMAVIRUS liên hệ đến những cô gái (14 tuổi). Tiêm chủng bảo vệ chống lại 70% các virus chịu trách nhiệm ung thư cổ tử cung.
NHIỀU MŨI TIÊM
Sự tuân thủ nghiêm chỉnh lịch trình tiêm chủng bảo vệ chống lại từ 11 đến 13 bệnh và từ 25 đến 30 mầm bệnh, điều này sẽ cần, từ lúc sinh ra đến năm 18 tuổi, từ 12 đến 16 mũi tiêm, trong đó từ 6 đến 7 mũi trước 1 tuổi, dầu có những vaccin phối hợp (cho đến 6 vaccin trong cùng 1 ống tiêm). (LE FIGARO 10/1/2011)
7/ CÁ, TỐT CHO TIM
Điểm chủ yếu :
- Cá mỡ (poisson gras) là một nguồn chủ yếu của các axit béo polyinsaturé.
- Nhưng cá cũng tích lũy thủ ngân !
- Những công trình nghiên cứu mới làm yên lòng về lợi ích quan trọng hơn của sự bảo vệ tim mạch.
Mặc dầu cá chứa thủy ngân, người ta vẫn ưa thích ăn cá bởi vì lợi ích của các oméga 3 mà nó chứa cao hơn nguy cơ gây độc của méthylmercure, dạng thủy ngân có được sau khi nuốt vào bởi một sinh vật khác. Đó là kết luận của một nhóm chuyên gia, được tập hợp trong dự án Phime (đặc biệt được tài trợ bởi Commission européenne), từ 5 năm nay họ khảo sát về những hậu quả y tế của việc tiếp xúc lâu dài với các kim loại nặng hiện diện trong môi trường, những độc chất như cadmium, thủy ngân hay manganèse. Hội họp ở Bruxelles vào tuần này theo lời mời của chuyên gia độc chất Alfred Bernard, giáo sư ở UCL (Bỉ), họ đã trao đổi những kết quả sau cùng. Một trong những cách đơn giản nhất để bảo vệ chống lại các tai biến tim mạch là tiêu thụ với lượng đủ các loại cá mỡ (poissons gras) như saumon, cá bơn lưỡi bò (flétan), cá trích (hareng), cá thu (maquereau), cá trỗng (anchois) và sardine, bởi vì chúng giàu acide gras polyinsaturé. Ví dụ ở Thụy Điển chính phủ khuyến nghị ăn cá mỡ ba lần mỗi tuần. Nhưng vấn đề là cá cũng tích lũy những độc chất như những kim loại nặng được phế thải bởi công nghiệp. Như thế thủy ngân được tích tụ trong cây cối và động vật. Những loài cá có kích thước lớn, như cá ngừ (thon) hay cá kiếm (espadon), thường bị liên hệ nhiều hơn những loài nhỏ hơn, vì lẽ thủy ngân tích tụ ở đỉnh của dây chuyền thực phẩm cho đến tận...con người. Đến độ ở Hoa Kỳ, Cơ quan quản trị thực phẩm và dược phẩm khuyến nghị các phụ nữ ở tuổi sinh đẻ và các trẻ em loại bỏ toàn bộ ra khỏi chế độ ăn uống cá kiếm (espadon), cá mập (requin), maquereau và hạn chế sự tiêu thụ cua (crabe) và cá ngừ (thon).(LE SOIR 4/2/2011) Đọc thêm :
8/ OMEGA 3 ẢNH HƯỞNG LÊN KHÍ CHẤT CHÚNG TA NHƯ THẾ NÀO ?
Các axít béo này, đặc biệt hiện diện trong cá, có một tác dụng chống trầm cảm (effet antidépresseur).
ALIMENTATION. Các oméga 3 là thành phần cùa những axít béo thiết yếu mà cơ thể không thể không tổng hợp được. Thế mà thực phẩm công nghiệp của chúng ta mang lại ngày càng ít oméga 3. Những axít béo này rất thịnh hành từ nhiều năm qua, chủ yếu có thể được tìm thấy nơi cá, có những tác dụng có lợi cho tim. Vài thầy thuốc cũng đã đưa ra ý tưởng là các oméga này ảnh hưởng lên phạm vi não bộ, với những tác dụng thuận lợi đối với bệnh trầm cảm. Nhiều tài liệu xuất bản mới đây thăm dò giả thuyết này. Đặc biệt, một công trình thí nghiệm của Inserm, được công bố tuần qua, chứng minh, trên chuột, một tác dụng không thuận lợi của một sự thiếu hụt oméga lên khí chất (humeur).
BS Patrick Lemoine, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần và tác giả của nhiều cuốn sách về bệnh trầm cảm, giải thích rằng “ trên bình diện dịch tễ học, đã từ lâu ta biết rằng những dân chài cá (ăn nhiều cá) ít bị chứng trầm cảm hơn so với dân săn bắn. Điều này hỗ trợ cho công trình nghiên cứu rất mới đây của Tây Ban Nha, được thực hiện nơi 12.000 tình nguyện, được theo dõi trong 6 năm, vừa cho thấy rằng so với một chế độ ăn uống lành mạnh và truyền thống, “malbouffe” làm gia tăng 50% nguy cơ trầm cảm. “Tuy vậy, chứng trầm cảm là một bệnh do nhiều yếu tố, và còn những yếu tố khác có thể góp phần vào. Thật vậy, ai biết được chỉ việc chăm chú vào những gì ta ăn, chăm sóc lấy mình, có phải là một cách tốt để bảo vệ chúng ta chống lại bệnh trầm cảm ?”, BS Lemoine đã nhấn mạnh như vậy.
GS Serge Hercberg, thầy thuốc chuyên khoa dinh dưỡng, người phụ trách công trình điều tra Nutrition cũng đánh giá rằng vấn đề này đang được đào sâu : “Những chế độ ăn uống thiếu hụt oméga 3 đã được cảm thấy như là có thể mở đường cho sự sa sút trí tuệ (déclin cognitif), những bệnh tim mạch và vài bệnh ung thư. Vậy giả thuyết mới này hoàn toàn đáng quan tâm. Nhưng đó chỉ là một hướng công tác, không thể được thể hiện bằng những áp dụng thực tiễn tức thời. Mặt khác, một số các công trình nghiên cứu nào đó đã được thực hiện về việc cho bổ sung oméga 3, đã không cho phép tìm thấy một lợi ích nào đó, bằng cớ cho thấy rằng chúng ta đã không nắm được tất cả. Chính vì thế, GS Serge Hercberg đã nói thêm như vậy, tốt nhất là áp dụng một chế độ ăn uống lành mạnh, mang lại khá đủ oméga 3, với một chế độ ăn uống kiểu Địa Trung hải (régime méditerranéeen), hơn là trông chờ vào một “viên thuốc nhiệm màu” mà ta không biết được những hiệu quả lâu dài.
Trong khung cảnh này, các nhà nghiên cứu của Inserm đã mong muốn biết được, trong thí nghiệm, tác động của một sự thiếu hụt oméga 3 lên não bộ. Để thực hiện điều đó, các con chuột đã chịu một chế độ ăn uống nghèo oméga 3 trong thời kỳ thai nghén và cho bú. Những con chuột con của chúng đã tiếp thu chế độ ăn uống này cho đến tuổi trưởng thành, trước khi chịu những trắc nghiệm khác nhau, để cho phép các nhà nghiên cứu kiểm tra mức độ ức chế chúng (các con chuột càng lo lắng thì chúng càng ít có một thái độ thăm dò). “Với công trình nghiên cứu này, chúng tôi đã cho thấy rằng một chế độ thiếu hụt oméga 3 có thể tác động lên khí chất, Olivier Manzoni, giám đốc nghiên cứu của Inserm đã nhận xét như vậy. Nhưng để mang lại bằng cớ chứng tỏ rằng chính sự thiếu hụt oméga 3 này là nguyên nhân, bây giờ chúng tôi phải kiểm tra xem điều gì sẽ xảy ra cho những con chuột này nếu chúng tìm lại được một chế độ ăn uống quân bình. Và để xem suốt trong giai đoạn phát triển của chúng, có những thời kỳ trong đó những hiệu quả của một chế độ giàu oméga 3 được cảm thấy tốt hơn. Vậy chúng tôi đang ở giai đoạn đầu của công trình nghiên cứu của chúng tôi.”
Trong lúc chờ đợi theo đuổi công trình nghiên cứu của mình, Olivier Manzoni cảnh cáo chống lại một “récupération” những kết quả này bởi các nhà công nghiệp : “Công trình của chúng tôi không nói rằng phải ngốn vào oméga 3 với hy vọng thoát khỏi bệnh trầm cảm! Nó cũng không nói rằng một chế độ ăn uống giàu oméga 3 khả dĩ điều trị một bệnh trầm cảm. Công trình nghiên cứu này chỉ nói rằng một chế độ ăn uống mất quân bình có thể lót đường cho chứng trầm cảm. Trong tình trạng kiến thức hiện nay, vậy đó chủ yếu là một lời khuyên hãy ăn uống lành mạnh hơn.” Dầu những người ham thích các tin giật gân có vừa lòng hay không, vậy những công trình nghiên cứu khác nhau này đều dẫn đến cùng một điều chứng thực: “Hãy nấu nướng riêng cho mình, cho những thức ăn lành mạnh, trong đó cá ít nhất hai lần mỗi tuần, đó còn là vũ khí thực phẩm tốt nhất “chống trầm cảm”. Ngoài ra vũ khí này lại ở trong tầm tay của tất cả mọi người, Olivier Manzoni, GS Serge Hercberg và B Patrick Lemoine để kết luận như vậy. (LE FIGARO 14/2/2011)
9/ NHỮNG TIẾNG Ù TAI : SAU CÙNG MỘT HY VỌNG CHỮA LÀNH !
GS Bruno Frachet, trưởng khoa Tai Mũi Họng, bệnh viện Avicenne (Bobigny), giải thích làm sao một thử nghiệm thành công nơi động vật sắp dẫn đến một nghiên cứu trên người.
Hỏi : Những triệu chứng của các bệnh nhân bị ù tai là gì ?
GS Bruno Frachet. Họ mô tả, trong một hay hai tai, những cảm giác âm thanh có cường độ mạnh ít hay nhiều, xảy ra không có tiếng động bên ngoài : những tiếng rít (sifflements), những tiếng xuýt (chuintements) hay những tiếng vo vo (bourdonnements). Khoảng 10% dân số bị liên quan một cách thường trực hay tạm thời. Nhưng tất cả mọi người đều cảm thấy những tiếng ù tai (acouphènes) vào một lúc nào đó trong cuộc đời mình.
Hỏi : Những nguyên nhân của những loạn năng thính giác (dysfonctionnement auditif) này là gì
GS Bruno Frachet. Trong đại đa số các trường hợp, những rối loạn này xảy ra sau một chấn thương âm thanh (traumatisme sonore) hay một bệnh của tai. Những chấn thương âm thanh đặc biệt thường xảy ra nơi những người sử dụng baladeur, suốt ngày gắn chặt vào hai tai.
Hỏi : Những hậu quả khả dĩ của những rối loạn này ?
GS Bruno Frachet. Trong nhiều trường hợp, những hậu quả không quan trọng và người ta quen với những tiếng ù tai này. Nhưng ở Pháp, 250.000 bệnh nhân thăm khám, cảm thấy khó tập trung, và nhiều người kêu vang khó ngủ, kèm theo một tình trạng rất mệt mỏi. Trong những trường hợp trầm trọng, các tiếng ù tai xảy ra một cách thường trực, ngày và đêm, có thể biến đổi cuộc sống thành một nỗi đau khổ dai dẳng thật sự !
Hỏi : Để làm hiểu rõ rối loạn này, ông mô tả cho bệnh nhân như thế nào cơ chế của thính giác
GS Bruno Frachet. Tôi giải thích cho họ những giai đoạn khác nhau cho phép chúng ta có thể nghe được. 1. Những tế bào tiêm mao (cellules ciliées) (trong tai trong) biến đổi rung âm (vibration sonore) nhận được từ bên ngoài thành một luồng thần kinh được truyền đến đây thần kinh thính giác. 2. Dây thần kinh thính giác này đưa luồng thần kinh đến vùng thính giác (aire auditive) của não bộ, ở đây những tế bào thần kinh tiếp nhận biến đổi nó thành cảm giác âm thanh. Thật vậy, ta nghe bằng não chứ không phải bằng lỗ tai.
Hỏi : Sau khi ông đã mô tả như vậy, có dễ dàng hơn đối với ông khi làm cho bệnh nhân hiểu sự phát sinh của các tiếng ù tai ?
GS Bruno Frachet. Có chứ, bởi vì như thế có thể giải thích làm sao, trong trường hợp loạn năng của những tế bào tiêm mao của tai trong, thì không còn có luồng thần kinh nữa : những tế bào tiếp nhận ở não do đó không còn nhận gì hết cả. Hậu quả là mất thính giác. Tuy vậy vẫn xuất hiện những tiếng ù tai !...bởi vì, trong vùng của trung tâm thính giác đã xảy ra một sự rối loạn tổ chức hoàn toàn, làm phát khởi những âm thanh bất thường, được sinh ra một cách hỗn loạn bởi các neurone lân cận.
Hỏi : Cho đến nay, làm sao điều trị các tiếng ù tai này ?
GS Bruno Frachet. Nếu đó là một căn bệnh gây ra nó, ta sẽ điều trị căn bệnh này. Nơi phần lớn các bệnh nhân bị ù tai mãn tính, ta thử, bằng một phương pháp tâm lý, phát triển điều ta gọi là một phản xạ làm quen (une habituation). Và ta thường đạt được. Tiếng ù tai không còn làm khổ nữa , mặc dầu nó đã không biến mất.
Những nhà nghiên cứu của đại học Texas đã kích thích bằng điện dây thần kinh phế vị (nerf vague) nơi 8 con chuột, một loại dây “câble”, lúc được hoạt hóa ở cổ, làm tiết ra trong não bộ những chất điều biến thần kinh (neuromodulateur), có liên hệ trong tính dẻo của não bộ (plasticité cérébrale). Sự kích thích này được kèm theo bởi sự phát ra những tần số âm thanh. Kết quả : sự sản xuất của những chất điều biến thần kinh này đã tái tổ chức sự phân bố của những tế bào thần kinh phụ trách về âm điệu, như thế bình thường hóa hoạt động của trung tâm thính giác và làm biến mất lâu dài những tiếng ù tai nơi các động vật này.
Hỏi : Khi nào ta sẽ thử áp dụng liệu pháp này nơi người ?
GS Bruno Frachet. Sự kết hợp với một kích thích âm thanh là rất đổi mới và mang lại hy vọng. Nhưng không nên quên rằng, nơi người, việc hiệu chính những điều trị chống lại các tiếng ù tai là phức tạp. Tuy nhiên, những nghiên cứu mà chúng tôi tiến hành với kíp của tôi về “các tiếng ù tai và sự kích thích điện” được làm phong phú thêm bởi triễn vọng mới này. Những công trình nghiên cứu khác hiện đang được thực hiện ở Châu Âu. (PARIS MATCH 10/2-16/2/2011)
10/ CÓ NHỮNG ĐIỀU TRỊ ĐỂ CHỮA LÀNH HAY LÀM THUYÊN GIẢM NHỮNG NGƯỜI BỊ CHỨNG Ù TAI ?
Professeur Patrice Tran Ba Huy, ORL, Membre correspondant de l’Académie nationale de médecine
Những tiếng ù tai làm hỏng cuộc sống của hàng trăm ngàn người đồng hương của chúng ta. Tiếng động ký sinh này, được cảm nhận bởi bệnh nhân trong một hoặc trong cả hai tai, thậm chí ở bên trong sọ, đúng là phát xuất từ một thương tổn nằm một nơi nào đó giữa tai và vỏ não thính giác, nhưng mặc dầu vừa gây ám ảnh vừa làm cho không chịu đựng được, chứng ù tai này vẫn đề kháng lại với hầu như toàn bộ các điều trị quy ước. Nói một cách khác, một tiếng ù tai đồng thời là có tính chất thực thể (đúng là có một thương tổn thật sự của hệ thính giác) và chủ quan (hiện nay hầu như không thể khách quan hóa triệu chứng này của bệnh nhân). Trong thực tiễn, về phía thầy thuốc chuyên khoa tai mũi họng, mọi triệu chứng ù tai trước hết buộc phải thực hiện một bilan hoàn toàn để tìm kiếm một nguyên nhân. Nguyên nhân này thường được thể hiện dưới dạng một triệu chứng điếc (surdité) mà loại điếc sẽ hướng về tai giữa, tai trong hay dây thần kinh thính giác. Thật vậy, mỗi bệnh lý của tai đều khả dĩ gây nên những tiếng ù tai, từ sự viêm bình thường nhất của vòi Eustache cho đến một khối u thần kinh loại neurinome của dây thần kinh thính giác, không quên những nguyên nhân khác như một rối loạn đơn giản của khớp hàm.
Một khi một nguyên nhân tiềm tàng của ù tai đã được nhận diện, dĩ nhiên phải điều trị nguyên nhân này. Chính ở đó mà tất cả được bắt đầu. Bởi vì mang máy để điều trị điếc tai trong hay cắt bỏ một neurinome của dây thần kinh thính giác không nhất thiết làm biến mất triệu chứng ù tai. Cùng một bệnh như nhau, cùng một điều trị giống hệt nhau, tương lai của triệu chứng ù tai này thay đổi từ bệnh nhân này qua bệnh nhân khác. Điều trị một triệu chứng ù tai (acouphène) không phải là điều trị một người bị ù tai (acouphénique). Một sự không ngang nhau như vậy cũng tương tự như những hậu quả của một vết sẹo trên gương mặt : người này sẽ chịu được nó không phải phấn son, còn người khác sẽ ăn không ngon ngủ không yên. Vết sẹo này chứng tỏ một vết thương thật sự. Vết sẹo sẽ được hội nhập, chuyển hóa, và được quên đi bởi bệnh nhân này, nhưng ở bệnh nhân khác, cùng vết sẹo sẽ gây nên khó chịu, đau khổ thậm chí trầm uất. Cũng như thế, chứng ù tai, làm triệu chứng điếc bị liệt vào bình diện thứ yếu, xâm chiếm trường tri thức của bệnh nhân, đến độ bị ám ảnh, làm nhiễu loạn mỗi giây phút của cuộc sống hàng ngày.
Trước hết cần phải giải thích những cơ chế, ngày nay được biết rõ, qua đó một thương tổn nào đó của hệ thính giác có thể sinh ra một sự tăng kích thích của các đường thính giác và do đó gây nên một cảm giác âm thanh. Một tiếng ù tai không là dấu hiệu báo trước của một tai biến mạch máu não. Và cần nhớ rằng não bộ cuối cùng sớm hay muộn luôn luôn quên, quên hay không chú ý đến một tiếng động liên tục.
KÍCH THÍCH XUYÊN SỌ
Phương pháp này, cơ sở của mọi điều trị, có thể dựa trên 3 công cụ bổ sung. Các thuốc, thuộc loại làm tan biến lo âu (anxiolytique), các thuốc chống trầm cảm, các thuốc an thần nhẹ hay các thuốc chống động kinh, hai loại thuốc sau chống lại các phóng thần kinh (décharges nerveuses) quá mức, được thấy rõ bởi chụp hình ảnh chức năng và chống lại tính tăng kích thích (hyperexcitabilité) của các trung tâm. Ngược lại, những thuốc nhằm vào mạch máu không có một lợi ích gì hết. Prothèse, mặc dầu làm giảm điếc, nhưng như thế có thể che khuất triệu chứng ù tai. Phương pháp hành vi (approche comportementale) của triệu chứng nhấn mạnh đến vai trò có hại không thể chối cãi của stress, của sự mệt mỏi, lo âu, nhờ các liệu pháp được gọi là nhận thức và hành vi (thérapie cognitive et comportementale).
Nhưng nhiều chặn đường còn phải thực hiện. Nếu sự tăng tính kích thích của các đường thính giác ngày nay là một sự kiện được xác nhận và là một nhân chứng khách quan của cảm giác âm thanh được làm dịu bớt bởi bệnh nhân, chúng ta vẫn chưa có phương tiện cho phép dập tắc nó. Sự kích thích điện từ xuyên sọ (stimulation magnétique transcranienne) hay những tiêm truyền tải chỗ những chất ức chế dẫn truyền thần kinh còn đang ở trong giai đoạn thử nghiệm. Chúng sẽ cho phép, có lẽ ngày mai hay ngày mốt, chống lại một cách trực tiếp cơ sở thực thể của các tiếng ù tai. Tuy nhiên vẫn không chắc rằng chúng làm thuyên giảm những gì đã kinh qua mà mỗi bệnh phân phóng rọi lên một triệu chứng, nhất là trong những xã hội được thông tin quá mức của chúng ta. (LE FIGARO 17/5/2010)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH, Chuyên Khoa Nội Thương và Cấp Cứu
(21/2/2011)

TAGS: Cảnh giác dược (Pharmacovigilance), Glivec, Leucémie myéloide chronique, Dùng sai thuốc (Mésusage), Alli, Rimonabant (Acomplia), Sibutral (Sibutramine), Champix, Zyban (bupropion), Champix (Tartrate de varénicline), Protelos, Renalate de strontium, Nhạy cảm thuốc (Syndrome d’hypersensibilité), Tétracycline (Minocycline), Isotrétinoine, Dress (Drug Rash Eosinophilia and Systemic Symptoms), Primalan, Teldane, Ritaline (Méthylphénidate), Tramadol, Opioide, Phụ thuộc thuốc (Dépendance), Cai thuốc (Syndrome de sevrage), Biphosphonates, Lạm dụng (Usage abusif), Cơn bốc hỏa (Bouffées de chaleur), Hoại tử xương (Ostéonécrose), Equanil, Benzodiazépine, Méprobamate, Lantus, Actos, Stilnox, Cảnh giác nghiện (Addictovigilance), Parlodel (Bromocriptine), Thalidomide, Sinh quái thai (Tératogenèse), Distilbène, Côn trùng (Triatome), Bệnh trùng mũi khoan (Trypanosomiase), Bệnh gây ngủ (Maladie du sommeil), Trypanososma cruzi, Omega 3, Ù tai, Loạn năng thính giác (Dysfonctionnement auditif), Triệu chứng điếc (Surdité), Rohypnol, Triệu chứng ù tai (Acouphène), Thuốc tan biến lo âu (Anxiolytique), Tăng kích thích (Hyperexcitabilité),Nguyen Van Thinh

Thời Sự Y Học số 213

Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh, Chuyên Khoa Nội Thương và Cấp Cứu
preview

1/ NHỮNG TIẾN BỘ CỦA CÁC GHÉP CƠ QUAN
NHỮNG ĐIỂM MỐC
GHÉP (GREFFES). Sự phân biệt y khoa giữa các chữ “transplantation” và “greffe” có khuynh hướng mờ nhạt đi và chúng càng ngày càng được sử dụng như những chữ đồng nghĩa. Sự khác nhau giữa hai chữ là ở kỹ thuật ngoại khoa được sử dụng để lấy và đặt vào trở lại (réimplanter) cơ quan hay các mô được ghép.
CÁC CƠ QUAN. Ngày nay ta có thể ghép một cách thành công 6 cơ quan khác nhau. Thận là thường được ghép nhiều nhất. Tiếp theo là gan, tim, phổi, tụy tạng và các phần của ruột. Những yếu tố khác của cơ thể có thể được ghép : tủy xương, da, giác mạc, các động mạch, xương..
LỊCH SỬ. Vào bất cứ thời kỳ nào, ngay cả trong thời Thượng Cổ, con người đã cố gắng thay thế các chi hay các cơ quan bị thiếu hụt bằng những chi hay cơ quan khác. Các phẫu thuật ghép đầu tiên đã xảy ra vào đầu thế kỷ XX. Các thầy thuốc đã thử ghép thận heo hay dê. Những thất bại liên tiếp cho phép khám phá một trong những điều trở ngại của giải phẫu, phản ứng thải bỏ (réaction de rejet) của cơ thể nhận mẫu ghép (greffon). Sự rọi tia X (irradiation) các mẫu ghép này, sau đó được thay thế bởi những thuốc chống thải bỏ (médicaments antirejets) càng ngày càng tinh vi, đã cho phép trong những năm 1960 các phẫu thuật ghép (transplantation) phát triển.
HIẾN (DON). Khi đó là một người có khả năng hiến (un donneur potentiel) bị chết, người vừa chết, lúc còn sinh tiền, phải đã nói rõ rằng ông hay bà ta đồng ý thuận cho các cơ quan của mình. Tiếc thay tình huống này không phải là luôn luôn xảy ra. Khi việc lấy cơ quan (prélèvement) có thể thực hiện được về mặt y khoa, nếu gia đình trước đó đã không đề cập vấn đề hiến các cơ quan với người chết, thì họ có thể do dự và chống lại việc lấy các cơ quan. Ngay cả việc có một carte de donneur cũng sẽ không ngăn cản các thầy thuốc phải hỏi ý kiến của gia đình. Nhưng nếu việc hiến cơ quan bị chống lại, ta vẫn có thể ghi tên vào một registre national du refus. Từ việc lấy các cơ quan đến sự điều trị chống thải bỏ nơi người được ghép, thủ thuật ghép cơ quan đã trải qua những bước tiến kỹ thuật. Nhưng vẫn luôn luôn không có khá đủ những người hiến (donneur).
IMPLANTATION. Trong số 4705 ghép cơ quan vào năm 2010, chính các ghép thận đứng đầu (2889), tiếp theo là các ghép gan (1092), đứng xa trước các ghép tim (356) hay phổi (244). Sau những con số này, đó là hàng ngàn mạng người được cứu sống... và hàng ngàn người khác đang chờ đợi để được ghép.
“Hơn 14.000 người cần một ghép cơ quan vào năm 2010. Đó là 3 lần nhiều hơn hôm nay”, BS Alain Atinault, giám đốc của direction opérationnelle du prélèvement de la greffe (organes et tissus), thuộc Agence de la biomédecine, đã phàn nàn như vậy. Hậu quả, khoảng 250 người chết mỗi năm, vì đã không có thể hưởng được đúng lúc một ghép cơ quan, như ca sĩ trẻ tuổi Grégory Lemarchal, bị bệnh mucoviscidose. Vậy đối với Grégory và tất cả những người khác, tất cả phải được thực hiện để làm tối ưu việc thu nhận những mẫu ghép quý báu sẵn sàng để sử dụng.
HƯỚNG HÀNH ĐỘNG ĐẦU TIÊN
Lấy tất cả các cơ quan có thể có nơi một người hiến và không phải chỉ thận hay gan như đã được thực hiện từ bấy lâu nay. “Vào năm 2003, ta chỉ ghép 100 lá phổi mỗi năm, vì thiếu mẫu ghép, BS Marc Sternn chuyên khoa về ghép phổi (bệnh viện Foch ở Suresnes) đã nhận xét như vậy. Bắt đầu từ năm 2004, các mạng lưới lấy cơ quan (réseau de prélèvement) đã thực hiện những cố gắng thật sự và ta đã nhân lên 2,5 lần số các mẫu ghép phổi có sẵn sàng để sử dụng.” Điều đó vẫn không đủ vì phải cần đến 350 mẫu ghép, nhưng sự chênh lệch giữa các mẫu ghép được lấy và các mẫu ghép cần thiết được thu nhỏ lại. Trái với một thành kiến, tuổi của người hiến không phải là một yếu tố kềm hãm. Thật vậy chính tình trạng của các cơ quan mới đáng kể : ví dụ ngày nay, cứ mười quả thận thì gần 3 phát xuất từ những người hiến trên 60 tuổi, BS Atinault đã xác nhận như vậy.
HƯỚNG HÀNH ĐỘNG THỨ HAI
Giữ gìn tốt hơn những mẫu ghép được lấy : “Khi người hiến cơ quan chết, các cơ quan của người này chịu nhiều biến đổi, BS Corinne Antoine, chuyên gia về ghép thận (bệnh viện Saint -Louis) đã giải thích như vậy. Thế mà sự vận chuyển cổ điển (ở 4 độ C trong một chất dịch bảo quản) làm gia tăng các nguy cơ bị các di chứng. Chính vì thế người ta đang đánh giá các máy móc có khả năng duy trì cơ quan trong những tình trạng gần sinh lý chừng nào có thể được. Ngoài ra các máy này cho phép kiểm tra các cơ quan đúng là hoạt động tốt.” Như thế tránh phải loại bỏ một mẫu ghép có thể hơi ít “đẹp” hơn, nhưng hoàn toàn có khả năng đảm nhiệm chức năng của nó. Đối với BS Stern, trong những năm đến, những máy này có thể xử lý vài biến đổi và như thế cho phép khôi phục các lá phổi hay những cơ quan khác đáng lý ra không được ghép trong tình trạng như vậy”. Ngoài sự kiện những máy móc mới này rất là tốn kém và không có mô hình phổ quát (những máy được sử dụng đối với tim là khác với những máy dùng cho phổi, thận), đó là một trong những tiến bộ lớn nhất được dự kiến trong một thời gian ngắn tới đây.
HƯỚNG HÀNH ĐỘNG THỨ BA
Giữ gìn tối đa mẫu ghép trong và sau can thiệp ngoại khoa. "Thí dụ ghép phổi đã được hưởng nhiều ECMO (oxygénation extracorporelle) trong những năm qua. Trái với tuần hoàn ngoài cơ thể (CEC: circulation extracorporelle), trong đó tuần hoàn máu được chuyển hoàn toàn ra ngoài cơ thể, kỹ thuật bổ khuyết các chức năng phổi này được dung nạp hơn nhiều. Được sử dụng trong và sau phẫu thuật, ECMO cho phép phổi mới được ghép phục hồi lại nhanh hơn và điều đó được thể hiện cụ thể bởi một tỷ lệ sinh tồn lúc một năm tốt hơn, BS Stern đã nhấn mạnh như vậy".
HƯỚNG HÀNH ĐỘNG THỨ TƯ
Sau cùng tìm những thuốc làm suy giảm miễn dịch (immunosuppresseur) mới, cũng hiệu quả nhưng ít độc hơn đối với người nhận. “Thật vậy, để một cuộc ghép thành công, hệ miễn dịch của người nhận (receveur) không thải bỏ cơ quan của người cho (donneur), và chính vì ta cho người nhận những thuốc như vậy suốt đời. Thế mà những thứ thuốc này độc đối với thận. Ngoài ra chúng làm gia tăng những nguy cơ nhiễm trùng và ung thư, bởi vì chúng tác động lên toàn bộ hệ miễn dịch và không chỉ lên những tế bào nhận biết mẫu ghép (greffon) như là một vật lạ”, BS Antoine đã nhắc lại như vậy.
Trong những năm đến, ta sẽ phải xác định tốt hơn những người nhận cần được điều trị nhất (do những chỉ dấu về nguy cơ thải bỏ mẫu ghép) và nhắm đích tốt hơn tác dụng của các thuốc làm suy giảm miễn dịch. Từ những tiến bộ này qua những tiến bộ khác, các kết quả tốt được mong chờ. “Trong các ghép phổi, chúng ta đã đạt được 80% những kết quả tốt sau một năm và chúng ta hy vọng chuyển qua 90% trong 3 hay 4 năm sắp đến. Đó là một hy vọng hiện thực vì lẽ vài kip trên thế giới đã đạt đến con số này”, BS Stern nói tiếp như vậy. Đối với thận, ta có thời gian nhìn lại nhiều hơn, các kết quả lại còn thuyết phục hơn : “Vào năm 2009, chúng ta đã có thể cho thấy rằng các máy vận chuyển các mẫu ghép thận làm gia tăng tỷ lệ sồng còn 4% sau một năm. Một tỷ lê đã rất là tốt, vì nó đạt đến 95%”, BS Antoine đã kết luận như vậy. Cái mức thành công biểu tượng 100% đã không bao giờ gần kề đến như thế. (LE FIGARO 7/2/2011) Đọc thêm :
2/ NHỮNG TRƯỜNG HỢP GHÉP KHÔNG CỐT TỬ
Ta có thể sống rất êm đẹp với một tụy tạng không còn có khả năng chế tạo ra hormone insuline nữa, như trong bệnh đái đường loại 1, và với các quả thận bi hỏng bởi chững bệnh đái đương này. Một cách đơn giản, phải dùng insuline suốt đời và nếu suy thận mãn tính quá tiến triển, phải chịu các thẩm tách (dialyse) 2 đến 3 lần mỗi tuần. Mặc dầu đó không phải là một vấn đề sinh tử, nhưng điều này làm giảm tuổi thọ và làm biến đối chất lượng sống. “Chính vì thế những người bị bệnh đái đường suy thận mãn tính trong giai đoạn tiến triển, nhưng có khả năng chịu được một can thiệp ngoại khoa khá nặng nề, có thể được ghép đồng thời một tụy tạng (96 trường hợp được thực hiện vào năm 2010) và một quả thận phát xuất từ cùng một người hiến, BS Lionel Badet, thầy thuốc chuyên khoa trong loại ghép này (Hospice Civils de Lyon), đã giải thích như vậy. Với những kết quả tốt, vì lẽ phần lớn những người được ghép này không cần đến thẩm tách nữa và 70% trong số những bệnh nhân này hoàn toàn không cần đến insuline 5 năm sau khi được ghép (85% đến 87% vào năm đầu tiên). Như thế tìm lại một chất lượng sống thật sự.”
Và khi ghép tụy tạng không thể thực hiện được vì lý do sức khỏe, vẫn còn có thể ghép “chỉ” những tế bào của các đảo nhỏ Langherans, nghĩa là những tế bào chế tạo insuline. “Những tế bào này được tiêm trực tiếp vào trong tĩnh mạch cửa nuôi gan, với gây tê tại chỗ. Ta không thể làm đơn giản hơn. Các kết quả thu được hơi ít tốt hơn so với ghép một tụy tạng vì lẽ khả năng hoàn toàn không cần đến insuline ít thường xảy ra hơn. Nhưng bằng cách duy trì một sự tiết cơ bản insuline, người bệnh đái đường dễ cân bằng đường huyết hơn nhiều. Chính vì vậy những người bệnh đái đường không ổn định, khiến họ chịu những đợt hạ đường huyết rất nghiêm trọng, là những người đầu tiên hưởng lợi nhờ phương pháp này”, BS Badet nói tiếp như vậy.
PHẨM GIÁ VÀ SỰ ĐỘC LẬP
Vậy ta không chỉ ghép để cứu mạng sống. Ta cũng ghép để cải thiện chất lượng của đời sống. Và điều lại còn mới hơn, đó là ngày nay ta ghép để tìm lại một cuộc sống xứng đáng (une dignité de vie). “Các loại ghép hỗn hợp (greffe composite), được gọi như thế bởi vì nhiều mô được ghép để tái tạo các bàn tay, cẳng tay, gương mặt,…, cho phép thoát khỏi một tình huống phế tật quan trọng, nguyên nhân của một cái chết xã hội (une mort sociale). Những thí dụ được biết đến nhất là những người bị cưa cụt hai bàn tay do tai nạn hay những người bị biến dạng mặt (défigurés), BS Badet đã xác nhận như vậy. Điều đó xảy đến cho khoảng 20 bệnh nhân mỗi năm, nơi những người ta đã dùng tất cả những giải pháp khác.” Những tin tốt lành là sau loại ghép này các bệnh nhân có thể lấy lại một cuộc sống bình thường và tìm lại được khả năng độc lập của mình. Ngoài ra, những phản ứng thải bỏ cũng được kiểm soát tốt như đối với bất cứ loại cơ quan nào khác. Tuy nhiên, sự phục hồi chức năng có thể rất dài lâu, đòi hỏi đến 3 hay 4 năm trước khi phục hồi hoàn toàn cảm giác và vận động của các bàn tay mới của mình. “Các ghép hỗn hợp được thực hiện cho đến nay nhằm vào các bàn tay, cánh tay, mặt, thanh quản, cũng như thành bụng kết hợp với các ghép ruột. Những giới hạn của ghép không ngừng lùi lại và các ghép hỗn hợp đang mở ra những loại ghép mới, trong điều trị những phế tật quan trọng”, BS Badet lấy làm sung sướng như vậy. (LE FIGARO 7/2/2011)
3/ UNG THƯ : PROTONTHERAPIE, MỘT TIẾN BỘ QUAN TRỌNG
Trong khi phóng xạ liệu pháp cổ điển sử dụng các tia X hay các điện tử, thì protonthérapie nhờ đến các proton. Các proton này đạt đến mục tiêu ở sâu với một sự chính xác lớn hơn và không ảnh hưởng lên các mô lành mạnh quanh khối u. Ở Viện Curie (Orsay), một trung tâm proton liệu pháp vừa mới mở cửa, với plateau technique là một trong những cơ sở hiệu nặng nhất của châu Âu. Nhờ một cánh tay kim loại “đẳng cự” (bras métallique isométrique) (một cấu trúc có đường kính khoảng 10 m và nặng hơn 100 tấn), chùm bức xạ từ nay có thể được định hướng quanh bệnh nhân theo tất cả góc đến. Như thế có khả năng điều trị những định vị mới của các khối u trong sọ, ngực, vùng chậu…Nhờ cánh tay isocentrique, những người bệnh bị những ung thư mà cho đến nay ta không thể tiếp cận được sẽ có thể được điều trị. Theo BS Sylvie Helfre, thầy thuốc chuyên về liệu pháp tia X (radiothérapeute) : “Các trẻ em sẽ là những bệnh nhân được hưởng nhiều nhất bởi vì kỹ thuật nhắm đích một cách hoàn hảo này cho phép bảo vệ tốt hơn các cơ quan có nguy cơ” (PARIS MATCH 3/2-9/2/2011) Đọc thêmhttp://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr51.htm (TSYH số 51, bài số 8)
4/ TẬP THỂ DỤC CÓ LỢI CHO TRÍ NHỚ CỦA NHỮNG NGƯỜI GIÀ
Điểm chủ yếu
- Ta thường nghĩ rằng sự thoái hóa của trí nhớ do tuổi già là không đảo ngược được.
- Sai, những nhà nghiên cứu đã chứng tỏ như vậy. Họ đã chứng minh rằng thùy hải mã (hippocampe) của những người hoạt động có thể lớn lên.
Sự luyện tập tim mạch vừa phải và đều đặn, như bước, cải thiện trí nhớ của những người trên 55 tuổi và ngăn cản một sự suy tàn của các năng lực tinh thần (capacité mentale) liên kết với sự lão hóa, theo công trình nghiên cứu được công bố hôm thứ hai trong PNAS. Đó là công trình nghiên cứu đầu tiên được tiến hành trên những người trưởng thành mạnh khỏe trên 55 tuổi và cho thấy những dấu hiệu bình thường của sự teo hồi hải mã, một vùng của não bộ đóng một vai trò chủ chốt đối với trí nhớ.
Những công trình nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng vùng này của não bộ hẹp dần lại một cách tự nhiên suốt trong cuộc sống của người trưởng thành, ảnh hưởng lên trí nhớ và làm gia tăng các nguy cơ bị sa sút trí tuệ (démence). Nhưng phải chăng điều đó không thể đảo ngược được ? Để biết được điều đó, các nhà nghiên cứu đã yêu cầu một nửa trong số 120 người tuổi từ 55 đến 80, nhàn rổi không hoạt động và không bị chứng sa sút trí tuệ, thực hiện bước, có mức độ, 40 phút mỗi ngày, 3 ngày mỗi tuần trong khi nửa kia chỉ luyện tập làm mềm thân thể (exercices d’assouplissement).
Chụp hình ảnh bằng cộng hưởng điện từ não bộ của những người bước (marcheur) đã cho thấy rằng thể tích của thùy hải mã trái và phải đã gia tăng 2,12% và 1,97% sau một năm. Ngược lại, những thành phần khác chịu một sự giảm 1,40 và 1,43% của cùng hai vùng của não bộ, một hiện tượng được cho là bình thường với sự lão hóa. Theo các nhà nghiên cứu này, sự luyện tập tim mạch (exercice cardiovasculaire) làm gia tăng các nồng độ của một protéine, BDNF, thuộc vào một họ các yếu tố hướng thần kinh (facteur neurotrophique), thiết yếu cho sự sống còn và sự tái sinh của các neurone chủ chốt để tạo nên những năng lực ghi nhớ mới. Các nhà nghiên cứu đã khám phá rằng sự gia tăng thể tích của hồi hải mã được liên kết với một sự gia tăng của protéine này trong máu.
Mặt khác, một nhóm các nhà nghiên cứu khác đã hiệu chính một chất chỉ dấu sinh học (biomarqueur) của bệnh Alzheimer. Tác nhân này, Florbetapir F18, cho phép phát hiện trong não bộ một protéine, bêta-amyloide. Sự tích tụ của protéine này, được quan sát trong não bộ khi giải phẫu tử thi, được nghi ngờ đóng một vai trò quan trọng trong căn bệnh này do tạo nên những mảng bêta-amyloide trong các vùng vỏ não.
Florbetapir F18 gắn vào và “soi sáng” các lắng đọng bêta-amyloide lúc chụp scanner. Thử nghiệm lâm sàng đã được tiến hành với 35 bệnh nhân già ở một giai đoạn tiến triển của bệnh Alzheimer. Các kết quả của trắc nghiệm đã được kiểm chứng bằng giải phẫu tử thi sau khi chết và đã đúng đắn trong 96% các trường hợp. Các nhà nghiên cứu cũng đã sử dụng kỹ thuật chụp hình ảnh này nơi 75 người trẻ hơn (18-50 tuổi) bình thường không có mảng bêta-amyloide để hiểu rõ hơn tần số của các trắc nghiệm âm tính giả trong việc giải thích các hình ảnh. “ Công trình nghiên cứu lâm sàng này của kỹ thuật chụp hình ảnh này cho thấy rằng thủ thuật này có thể nhận diện các mảng bêta-amyloide trong não bộ của những người khi họ còn sống, các tác giả của thử nghiệm này đã viết như vậy trong JAMA. Một công trình nghiên cứu khác, được công bố trong cùng tờ báo, chỉ rõ rằng các nồng độ thấp hơn trong máu của các mảng của protéine beta-amyloide này có thể tiên đoán một người có một nguy cơ cao hơn bị sa sút trí tuệ trong 9 năm sắp đến hay không và điều này, ngay cả trước khi các triệu chứng xuất hiện.
“TẬP THỂ DỤNG LÀM CHẬM LẠI SỰ THOÁI HÓA TRÍ TUỆ ”
Rõ ràng là, cái điệp khúc, theo đó các tế bào thần kinh không thể được tái tạo trong suốt cuộc đời, dường như đúng là rất sai trái, mặc dầu không nên đánh giá quá mức tiềm năng tái tạo này. Vậy một hoạt động vật lý có mức độ, làm lợi cho trí nhớ qua việc tiếp lại sức sống của các vùng kế cận với hồi hải mã, không phải là một tin làm tôi ngạc nhiên ghê gớm. Ta đã chứng thực điều đó nơi những người bị trầm cảm, nơi những người này hồi hải mã bị teo lại rồi trở nên phát triển sau khi được điều trị. Ta có thể xác nhận không nguy cơ bị nhầm lẫn rằng tập thể dục, ngay ở mức độ vừa phải, làm chậm lại các cơ chế làm thoái hóa trí tuệ (dégénérescence mentale) ”, BS Jean-Christophe Bier, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh, chuyên điều trị bệnh Alzheimer ở bệnh viện đại học Erasme (ULB, Bỉ), đã giải thích như vậy. “Điều gây ngạc nhiên nhất, đó là ta không biết tại sao. Đó có phải là do lưu lượng máu ? Một sự xây dựng lại các khớp thần kinh (synapse) ? Có khả năng nhất kết quả này là do một sự thôi thúc các tế bào thần kinh (sollicitation neuronale) ”.
Về việc sử dụng một chất chỉ dấu sinh học mới nhằm phát hiện các mảng của protéine beta-amyloide, BS Jean-Christophe Bier thấy nơi đó “một công cụ bổ sung, cạnh tranh với hai dự kiến khác cũng rất tiên tiến. Chất chỉ dấu sinh học rất hữu ích để thấy được sự tiến triển của mảng beta-amyloide, nhưng một mình, điều đó không cho phép chẩn đoán bệnh Alzheimer. Nhất là hôm nay, vẫn không có một điều trị nào cho căn bệnh cả, ngoài vài giải pháp nhằm làm chậm lại sự tiến triển của nó. Tuy nhiên, cái ngày mà ta sẽ có được một điều trị như thế, loại chụp hình ảnh được cải thiện này sẽ rất hữu ích để xác định giá trị của một loại thuốc, nhằm xem nó có tác dụng hay không lên các mảng beta-amyloide được tích tụ. Tuy nhiên còn phải chắc chắn rằng loại thuốc tương lai chống lại bệnh Alzheimer này sẽ tấn công đúng vào protéine này chứ không phải vào một cơ chế sinh học khác, còn cần phải khám phá ”…(LE SOIR 2/2/2011) Đọc thêm :
5/ UNG THƯ TRỰC TRÀNG : MỒ QUA RỐN
Nhờ một kỹ thuật nội soi tiên tiến, được hiệu chính ở Hoa Kỳ và cho phép một động tác ngoại khoa ít xâm nhập, một kíp các thầy thuốc ngoại khoa người Thổ vừa mổ thành công 4 bệnh nhân bị một ung thư trực tràng, với một đường xẻ 3 cm ở rốn. Cơ vòng hậu môn của các bệnh nhân đã được bảo tồn, săn sóc hậu phẫu được đơn giản hóa và thời gian nằm viện trung bình chỉ 4 ngày. (PARIS MATCH 10/2-16/2/2011)
6/ GIỌNG NÓI CỦA NGƯỜI MẸ KÍCH THÍCH SỰ RÈN LUYỆN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ SƠ SINH
Điểm chủ yếu :
- Trẻ sơ sinh duy trì một mối quan hệ ưu tiên với người mẹ của mình.
- Nó cũng phản ứng hơn với giọng nói của bà mẹ.
- Công trình nghiên cứu ở Montréal lần đầu tiên cho thấy não bộ của một em bé mới sinh ra vài giờ phản ứng như thế nào với các kích thích khác nhau.
Theo một công trình nghiên cứu của Canada, người mẹ là người khởi xướng chủ yếu của ngôn ngữ nơi nhũ nhi. Điều này gợi ý một mối liên hệ sinh - thần kinh (lien neurobiologique) giữa việc thụ đắc ngôn ngữ trước khi sinh và các năng lực vận động cần thiết để nói.
Trong não bộ thành thục của người lớn, có những vùng đặc hiệu để cảm nhận giọng nói, đặc biệt lắng nghe những giọng nói quen thuộc. Nhưng ta biết không bao nhiêu về phương cách não bộ của nhũ nhi xử lý những thông tin này.
Một nhóm nghiên cứu của Đại Học Montréal và của Trung tâm nghiên cứu của CHU Sainte-Justine đã nghiên cứu phương cách các trẻ sơ sinh xử lý giọng nói của người mẹ so với giọng nói của một người xa lạ. Maryse Lassonde (khoa Tâm Lý học thuộc đại học Montréal) và các đồng nghiệp đã thực hiện các ghi điện sinh lý (enregistrements électrophysiologiques) trên 16 trẻ sơ sinh trong 24 giờ sau khi chúng sinh ra đời. Nhóm của GS Lassonde đã cắm các điện cực trên đầu của các em bé trong lúc chúng ngủ. “Chúng tôi đã yêu cầu người mẹ của những đứa trẻ này phát ra một âm ngắn của nguyên âm “a”, như trong chữ “allo”, GS Lassonde đã giải thích như vậy. Sau đó chúng tôi đã lập lại với một giọng nói khác, thí dụ giọng nói của cô y tá đã mang em bé đến phòng thí nghiệm (các giọng nói của hai phụ nữ đều giống nhau). Khi người mẹ nói, các nhấp nháy đồ (scintigramme) đã chỉ rất rõ rằng các phản ứng trong thùy thái dương trái, và đặc biệt là trong vòng phụ trách xử lý ngôn ngữ và lời nói vận động (circuit du traitement linguistique et verbo-moteur) khi em be nghe người mẹ nói. Ngược lại khi một người khác nói, chính thùy thái dương phải (liên kết với sự nhận biết âm thanh) đã phản ứng lại”.
Vậy nhưng kết quả gợi ý rằng, ít lâu sau khi sinh, các trẻ sơ sinh xử lý một cách phân biệt giọng nói của mẹ chúng ở một mức tiền chú ý sớm (préattentionnel précoce) và sau đó, ở một mức nhận thức (cognitif).Thật vậy, sự tiếp xúc sớm với giọng nói của người mẹ gây nên một sự xử lý ngôn ngữ thích đáng, trong khi giọng nói của người lạ gây nên những đáp ứng đặc hiệu hơn với giọng nói. Như thế giọng nói của người mẹ hoạt hóa các vùng não bộ chịu trách nhiệm về việc học tập ngôn ngữ.
SAINTE MERE
"Ta đã biết rằng các em bé có vài năng lực ngôn ngữ bẩm sinh, nhưng các nhà nghiên cứu chỉ mới bắt đầu hiểu những khả năng này là gì và chúng hoạt động như thế nào. Thí dụ, khi một em bé nghe tiếng “a”, chiếc miệng của nó lấy hình dáng cần thiết để bắt chước tiếng động này, mặc dầu nó đã không bao giờ thấy một người nào đã phát ra âm thanh đó”, Maryse Lassonde đã nói thêm vào như vậy.
Tính chất đặc biệt của mô hình hoạt hóa của não trái trội, tiếp theo bởi một sự hoạt hóa trung tâm quan trọng hơn, lúc đáp ứng lại gong nói của người mẹ có thể là chỉ dấu sinh lý thần kinh (indice neurophysiologique) của vai trò ưu tiên của người mẹ trong sự thụ đắc ngôn ngữ của em bé. (LE JOURNAL DU MEDECIN 1/2/2011) Đọc thêm :
7/ BỆNH KAHLER
Con của thầy thuốc và chính mình cũng là thầy thuốc ở Prague, Otto Kahler nổi tiếng về những công trình về tủy xương và, đặc biệt hơn, về đau tủy xương (myélome multiple des os). Ngoài ra, đây là một ung thư sẽ làm quan tâm nhiều thầy thuốc, do đó bệnh này có nhiều tên gọi khác nhau.
Otto Kahler, sinh năm 1849 và là con của một thầy thuốc, nên dĩ nhiên đã theo cùng con đường của bố mình và có được bằng Tiến sĩ y khoa lúc 22 tuổi, ở Prague, thành phố sinh ra ông. Gia đình ông khá giả và cho ông đi du học ở Paris, nơi đây ông hằng lui tới với Charcot và Duchenne de Boulogne. Những người này đã làm cho ông ham thích môn cơ thể bệnh lý của hệ thần kinh trung ương. Ông trở lại Prague và Clinique médicale của mình, nơi đây ông trở thành trợ lý nội khoa (assistant en médecine interne) rồi trở thành giáo sư lúc 33 tuổi.
Tuy vậy ở Trung Âu, ông tiếp tục giảng Phúc Âm theo Charcot, về phương pháp trong y khoa lâm sàng và thần kinh học của người thầy thuốc chuyên khoa thần kinh nổi tiếng ở Paris này. Cùng với thầy thuốc chuyên khoa tâm thần kinh (neuropsychiatre) Arnold Pick, trong vòng 4 năm ông đã viết : Bệnh học có quan hệ chặt chẽ và cơ thể bệnh lý của hệ thần kinh trung ương (1879) và năm sau, cùng với Pick ông đặt tên cho cái đã trở thành “Luật Kahler-Pick”. Lý thuyết phức hợp này phát biểu rằng các sợi thần kinh, khi đi vào ở một mức cao của cột sống sau của tủy sống, sẽ di chuyển những sợi thần kinh vào phía trong, đến một mức thấp hơn, để tạo nên bó gai thị (faisceau spinothalamique).
NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH ĐAU TỦY (MYELOM MULTIPLE)
Ông cũng là người đầu tiên mô tả những triệu chứng của bệnh syringomyélie (bệnh rỗng tủy sống). Bất thường này thể hiện sự hiện diện của một kênh (canal) hay một ống dẫn (conduit) (syrinx) trong tủy sống (myélos). Là dị dạng bẩm sinh hay thứ phát, sau một chấn thương tủy hay không, bệnh syringomyélie nói chung được phát hiện ở người trưởng thành trẻ tuổi và gây nên những dấu hiệu đặc biệt của thương tổn tủy sống : các rối loạn cảm giác, nhưng cũng đôi khi vận động, thuộc loại bại liệt hai chi dưới (paraplégie) hay 4 chi (tétraplégie), có tiến triển nói chung âm ĩ trên nhiều chục năm trời.
Vào lúc 40 tuổi, Kahler được mời đến Viennne để thay thế Heinrich von Bamberger để lãnh đạo Clinique médicale và chính vào năm này ông đã hoàn thành các công trình cơ bản của ông về triệu chứng học của myélome multiple. Ông kết bạn với Nothnagel, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của Vienne, thân cận với nền quân chủ Áo-Hung. Ông này làm Kahler nổi danh qua bài thuyết trình của mình “về tính chất và tiến triển lịch sử của chẩn đoán của chúng ta” và xem Kahler là một người giảng dạy “rõ ràng, rõ ràng và trong sáng!”
Bất hạnh thay, một năm sau, Kahler phát bệnh ung thư lưỡi và người phụ tá của ông, Frierich Kraus thay thế ông. Kahler qua đời 3 năm sau ở Vienne, vài tuần sau ngày sinh nhật thứ 44 của ông. Mặc dầu cuộc đời ngắn ngủi, Kahler được xem như là một trong những nhà lâm sàng quan trọng nhất của thời đại ông.
MỘT UNG THƯ RẤT ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
Kahler là người mô tả nổi tiếng nhất về bệnh myélome multiple nhưng mặc dầu “bệnh Kahler” sử dụng tên ông trong nhiều nước, nhưng đó không phải là người mô tả duy nhất về căn bệnh này. Ta biết bệnh myélome multiple dưới nhiều danh xưng khác nhau. Camillo Bozzolo, thầy thuốc người Ý đương thời với Kahler, đã học ở Đức và Áo trước khi trở lại Turin. Bozzolo nổi tiếng về các công trình của mình trong lãnh vực huyết học, kể cả các di căn ung thư trong tuần hoàn máu. Mặc dầu ta thường gọi là bệnh Kahler cũng như bệnh Bozzolo, nhưng cũng không hiếm khi tìm thấy chúng liên kết trong thuật ngữ “bệnh Kahler-Bozzolo”.
Về phần mình, Henry Bence Jones là người đầu tiên hiệu chính một trắc nghiệm phát hiện protéine nước tiểu liên kết với myélome vào năm 1847, hai năm trước khi Kahler sinh ra đời và việc mô tả vào năm 1850 trường hợp lâm sàng đầu tiên này ở Luân Đôn, bởi nhà lâm sàng điều trị bệnh nhân, BS Macintyre, đã sinh ra hai chữ đồng nghĩa khác: hội chứng Bence Jones và hội chứng MacIntyre. Ở Nga, chính BS von Rustitskii đã mô tả vào năm 1873 cùng căn bệnh, 16 năm trước Kahler và đã đặt tên là “myélome” trong khi Kahler thêm vào tính từ “multiple”. Độc lập nhau, một thầy thuốc Anh đương thời, BS Huppert, cũng đã nghiên cứu về căn bệnh này, do đó còn có một tên gọi khác là hội chứng Huppert. Sau cùng vào năm 1900, một người Mỹ, James Homer Wright gắn liền tên tuổi với myélome multiple do ông đã khám phá những tương bào (cellules plasmatiques), dấu hiệu đặc hiệu của bệnh myélome. Ông đề nghị thuật ngữ “plasmome” để chỉ tất cả các myélome nhưng từ ngữ này sẽ vẫn rất ít được sử dụng. (LE GENERALISTE 3/2/2011)
Ghi chú :
- Myélome multile (Đa u tủy) hay bệnh Kahler : sự tăng sinh ác tính của các tương bào (plasmocyte) trong tủy xương. Bệnh đa u tủy nói chung phát triển nơi những người trên 50 tuổi. Bệnh có thể được khám phá nhân các triệu chứng đau xương đề kháng với các thuốc giảm đau, một tình trạng thiếu máu, một sự gia tăng quan trọng của tốc độ trầm lắng, suy thận, hay nhiễm trùng tái phát, nhất là phổi.
8/ HÚT THUỐC GÂY NHỮNG TỔN HẠI DI TRUYỀN TRONG VÀI PHÚT
Một công trình nghiên cứu mới của Hoa Kỳ, công trình đầu tiên xem xét những tác dụng của thuốc lá lên ADN, chứng minh sự xuất hiện của một sản phẩm gây ung thư trong máu, chỉ 15 đến 30 phút sau khi hít hơi thuốc đầu tiên. Vài bouffée de tabac và nguy cơ ung thư phổi đã ở đó rồi ! Những tác hại của thuốc lá không cần phải chứng minh nữa, nhưng tốc độ những tác hại này xuất hiện mới làm ngạc nhiên : sản phẩm vừa mới được hít vào, thì nó đã gây độc rồi. Chỉ cần chưa được hơn 30 phút thì thuốc lá đã tấn công những tế bào và gây nên những biến dị di truyền, đuợc ghi khắc trực tiếp trong ADN của người hút thuốc tích cực và người hút thuốc thụ động, và có thể gây nên những nguy cơ ung thư.
“Tác dụng nhanh đến độ nó tương đương với sự tiêm trực tiếp chất thuốc lá vào máu”, trong phần kết luận các tác giả của công trình nghiên cứu đã giải thích như vậy. Nghiên cứu này được tài trợ bởi viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ. Theo họ kết quả này là “một lời cảnh cáo nghiêm khắc” đối với những người hút thuốc lá hay tất cả những người bị cám dỗ bởi herbe à Nicot. Bởi vì, như OMS nhấn mạnh, không hiện hữu những điếu thuốc tốt. Nói một cách khác, ngay hơi thuốc đầu tiên, các nguy cơ đã ở đó rồi.
TÁC DỤNG CỦA CÁC HAP
Trên thực tiễn, GS Stephen Hecht, một chuyên gia được quốc tế công nhận về những chất sinh ung thư hiện diện trong khói thuốc lá và các đồng nghiệp của Đại Học Minnesota, đã tiến hành một công trình nghiên cứu nơi 12 người hút thuốc tình nguyện. Họ đã theo dõi dấu vết, trong máu của những người này, những độc chất được chứa trong khói thuốc lá và được gọi là HAP (hydrocarbures aromatiques polycycliques). Đặc biệt họ thêm vào một chất chỉ dấu cho một loại của HAP, phénathrène, một chất đặc biệt có hại, để khảo sát tác dụng của nó mà không ảnh hưởng lên những nguồn tiếp xúc khác như sự ô nhiễm ăn uống và chế độ ăn uống. GS Hecht đã vô cùng ngạc nhiên khi chứng thực tính chất nhanh chóng của các tổn hại được gây nên bởi các HAP. Chúng tác động như những yếu tố gây ung thư đáng sợ trên cả đoạn đường mà thuốc lá đã đi qua : môi, lưỡi, hau, thanh quản, phế quản Ông cũng đã nhận xét rằng phénanthrène gây nên những biến dị nơi ADN của các tế bào, có thể dẫn đến một ung thư. Thế mà, mức tối đa của chất này trong máu đã đạt được 15 đến 30 phút sau khi chỉ đã hút một điếu thuốc mà thôi.
GÂY CHẾT NGƯỜI NHẤT
Kết quả này gây ngạc nhiên. Cùng cách như vậy, sau một thời gian lâu người ta đã hằng tin rằng phải cần nhiều tháng hay nhiều năm để bệnh nghiện thuốc lá có thể được thành hình, thì giờ đây người ta biết rằng những cơ chế lớn gây phụ thuộc (dépendance) được thiết lập ngay những điếu thuốc lá đầu tiên. Mặt khác, chứng nghiện thuốc lá, nguồn gốc của hơn 5 triệu người chết mỗi năm trên thế giới, được liên kết không những với ung thư phổi, căn bệnh giết người nhất, và là ung thư gia tăng nhiều nhất vì lẽ hơn 12 triệu trường hợp mới được chẩn đoán mỗi năm, nhưng cũng được liên kết với 18 loại ung thư khác, ảnh hưởng lên một chục cơ quan và hệ cơ quan, các nhà nghiên cứu đã nhắc lại như vậy. Những đích chủ yếu : mũi và hầu, thận, miệng và môi, bàng quang, tụy tạng, thanh quản, thực quản, các cơ quan tiêu hóa, các xoang mũi (sinus). Đó là chưa kể đến những tổn hại của nhiễm độc thuốc lá thụ động, chịu trách nhiệm 600.000 tử vong mỗi năm.
Với khám phá mới này, các nhà khoa học hy vọng thuyết phục vài người hút thuốc bỏ thói quen xấu của mình đi.. (LE JOURNAL DU MEDECIN 28/1/2011) Đọc thêm :
9/ LÀM LẠNH ĐỂ CHỐNG LẠI TỐT HƠN TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
Hạ thân nhiệt điều trị (hypothermie thérapeutique) có thể làm gia tăng một cách đáng kể tỷ lệ sống sót sau các tai biến tim mạch, theo mạng châu Âu về nghiên cứu hạ thân nhiệt. Những dữ kiện mới khoa học đã xác định rằng “sự làm lạnh vài độ các bệnh nhân có thể, không những cải thiện một cách đáng kể các tỷ lệ sống sót, mà còn làm giảm nguy cơ mắc phải phế tật vật lý”, theo Malcolm Mac-Leod, trưởng khoa Khoa học thần kinh thực nghiệm (Neuroscience expérimentale) Edimbourg. Hạ thân nhiệt là một loại hibernation của não bộ, cho phép làm chậm lại nhu cầu oxy và giúp ngăn ngừa những tổn hại khác. Mục tiêu là làm hạ nhiệt độ của cơ thể người xuống 35 độ C. (LE SOIR 27/1/2011) Đọc thêm :
10/ SÓN TIỂU : MỘT TIẾN BỘ VỚI TOXINE BOTULIQUE
GS Emmanuel Chartier-Kastler, thầy thuốc chuyên khoa ngoại tiết niệu thuộc bệnh viện Pitié-Salpêtrière (Paris).
Hỏi : Ta ít nói về són tiểu (incontinence urinaire : sư đái không kềm chế được, đái dầm), chủ đề này có vẻ cấm kỵ. Rối loạn này có thường xảy ra không ?
GS Chartier-Kastler. Vâng, vì lẽ chứng bệnh này ảnh hưởng lên 3 đến 5 triệu người ở Pháp. Có hai dạng. 1. Són tiểu lúc gắng sức (incontinence d’effort), thường xảy ra nhất nơi phụ nữ. 2. Són tiểu do thôi thúc (incontinence par impériosité, par urgence), xảy ra ở cả hai giới sau 50 tuổi.
Hỏi : Trong đời sống hàng ngày, những hậu quả của chứng bệnh này là gì ?
GS Chartier-Kastler. Trước hết người ta cảm thấy xấu hổ (nhất là những người bị són tuổi do thôi thúc), ngăn cản họ không muốn đi khám bệnh. Trong vài trường hợp rất nghiêm trọng, những rối loạn có thể dẫn đến một sự tách rời xã hội (désocialisation), với nỗi sợ lúc phải ra khỏi nhà. Són tiểu lúc gắng sức nói chung là hậu quả của thai nghén, sinh đẻ, mãn kinh hay tăng thể trọng. Còn són tiểu do thôi thúc (incontinence par impériosité), cao tuổi thường nhất là nguyên nhân của chứng bệnh này. Bàng quang, lúc về già, trở nên quá hoạt động. Nó co lại một cách không tự ý.
Hỏi : Cho mãi đến nay, những điều trị cổ điển là gì ?
GS Chartier-Kastler. Về chứng són tiểu xảy ra lúc gắng sức, vài kỹ thuật ngoại khoa cho phép hủy bỏ chứng bệnh này. Đối với són tiểu do thôi thúc, điều trị trước hết là nội khoa, với các thuốc anticholinergique nhằm ngăn cản những co thắt bất thường của bàng quang. Nếu điều trị này không đủ, ta có thể đề nghị cắm một pacemaker bàng quang. Những liệu pháp này thường kèm theo những buổi phục hồi chức năng (séances de rééducation) các cơ của đáy chậu.
Hỏi : Những kết quả thu được với những phương thức khác nhau này là gì ?
GS Chartier-Kastler. Khoảng 2/3 các bệnh nhân được điều trị bằng thuốc có một sự cải thiện với một liều mỗi ngày. Bệnh tái xuất hiện ngay khi ngừng điều trị. Mặt khác, những loại thuốc này có khả năng gây nên những tác dụng phụ (táo bón, miệng và mắt khô), điều này giải thích tại sao gần một nửa các bệnh nhân phải bỏ thuốc.
Hỏi : Protocole của điều trị mới đây bằng toxine botulique là gì ?
GS Chartier-Kastler. Trước hết, không nên hoảng sợ với chữ “toxine”, bởi vì độc tố này đã được sử dụng từ hơn 20 năm qua trong nhãn khoa và chuyên khoa tiêu hóa. Về các són tiểu, mục đích của toxine này là làm giảm một sự co bóp không tự ý của cơ bàng quang. Trong lãnh vực này, trước hết toxine botulique được chỉ định nơi những người bị són tiểu do bại liệt hai chi dưới (incontinence paraplégique) hay bị bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques). Bây giờ toxine botulique được đề nghị cho những bệnh nhân đề kháng với điều trị nội khoa cổ điển và cho những bệnh nhân đã bỏ điều trị này. Toxine botulique được tiêm vào thành bàng quang bằng kỹ thuật nội soi và trên cơ sở ngoại trú. Chiếc kim tiêm được hướng dẫn dưới con mắt của caméra. Gây mê có thể tại chỗ hay tổng quát. Hiệu quả của điều trị kéo dài từ 6 đến 9 tháng. Sau thời hạn này phải lập lại buổi tiêm chích.
Hỏi : Công trình nghiên cứu nào đã chứng tỏ tính hiệu quả của điều trị mới này ?
GS Chartier-Kastler. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về điều trị này. Trong số những công trình mới nhất, công trình quốc tế của BS Dmochowski, thầy thuốc chuyên về niệu khoa Hoa Kỳ, được thực hiện trên 313 bệnh nhân đề kháng với các loại thuốc, đã cho phép ghi nhận được những kết quả tốt : 60% những người đã tham gia thử nghiệm này đã hưởng được một sự cải thiện hay một sự biến mất phế tật của họ trong trung bình 6 tháng.
Hỏi : Tóm lại, những ưu điểm của phương pháp điều trị mới này là gì ?
GS Chartier-Kastler. 1. Không phải uống thuốc mỗi ngày, như thế không bị bó buộc. 2. Phương pháp cho thuốc đơn giản và có thể đảo ngược được. 3. Không có tác dụng phụ với liều lượng đúng đắn. 4. Cải thiện nhiều chất lượng đời sống. 5. Không đau và không gây sẹo. 6. Trị liệu này cho phép điều trị những bệnh nhân vốn bị thất bại trị liệu. (PARIS MATCH 3/2-9/2/2011) Đọc thêm :

BS NGUYỄN VĂN THỊNH, Chuyên Khoa Nội Thương và Cấp Cứu
(14/2/2011)

TAGS: Ghép (Transplantation), Greffe, Réimplanter, Mẫu ghép (Greffon), Thuốc chống thải bỏ (Médicaments antirejets), Người hiến (Donneur), ECMO (Oxygénation extracorporelle), CEC (Circulation extracorporelle), Suy giảm miễn dịch (Immunosuppresseur), Ghép hỗn hợp (Greffe composite), Thùy hải mã (Hippocampe), Năng lực tinh thần (Capacité mentale), Sa sút trí tuệ (Démence), Luyện tập tim mạch (Exercice cardiovasculaire), Chỉ dấu sinh học (Biomarqueur), Bêta-amyloide, Alzheimer, Liên hệ sinh-thần kinh (Lien neurobiologique), Ghi điện sinh lý (Enregistrements électrophysiologiques),Tiền chú ý sớm (Préattentionnel précoce), Nhận thức (Cognitif), Bó gai thị (Faisceau spinothalamique), Syringomyélie (Rỗng tủy sống), Bại liệt hai chi dưới (Paraplégie), Liệt 4 chi (Tétraplégie), Myélome multiple, Bệnh Kahler-Bozzolo, Hội chứng Bence Jones, HAP (Hydrocarbures aromatiques polycycliques), Són tiểu (Incontinence urinaire), Tách rời xã hội (Désocialisation), Són tiểu gắng sức (Incontinence d’effort), Phục hồi chức năng (Séances de rééducation), Toxine botulique,Nguyen Van Thinh

Share

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More