Thời Sự Y Học số 211

Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh, Chuyên Khoa Nội Thương và Cấp Cứu

preview

1/ LIFTING ĐỂ LÀM LÙI LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA TUỔI GIÀ
NHỮNG ĐIỂM MỐC
ĐIỀU BIẾN (REMODELER). Chính vào cuối thế kỷ XIX mà những can thiệp ngoại khoa vì lý do thẩm mỹ đầu tiên đã được thực hiện. Chính một thầy thuốc trẻ người Đức gốc Do Thái, Jacques Joseph (1865-1934) đã thực hiện những rhinoplastie đầu tiên. Khi đó mục đích là để tống khứ khỏi bệnh nhân cái “mũi Do Thái” để có thể hòa lẫn tốt hơn vào đám đông người. Dần dần ông ta hoàn thiện các kỹ thuật nhằm không để lại một vết sẹo mổ nào mà người khác có thể nhìn thấy được. Và khi đó ông chứng thực rằng các bệnh nhân của ông đã trở nên “sung sướng”
CHIẾN TRANH. Đệ nhất thế chiến, với hệ lụy “gueules cassées” sẽ dẫn đến một sự phát triển những kỹ thuật mới nhằm mang lại cho các thương binh những gương mặt dễ coi chừng nào có thể được. Nhưng nhờ đó mà đã phát minh ra kỹ thuật lifting. Sarah Bernhardt là một trong những nghệ sĩ đầu tiên đã hưởng được kỹ thuật này.
KHÔNG TRÔNG THẤY. Các kỹ thuật ngoại khoa thẩm mỹ cũng sẽ phát triển với cùng mối quan tâm này: các sẹo mổ không được nhận thấy. Như thế, vào lúc Nhật Bản mở cửa với Tây Phương, nhiều người Nhật đi mổ mặt để làm giống với những tiêu chuẩn phương tây bằng cách làm biến đổi mũi và các mi mắt. Ta sẽ tìm thấy sự tìm kiếm để hòa mình vào trong đám đông nơi những người Việt di tản qua Hoa Kỳ trong những năm 1970.
SẮC ĐẸP. Y khoa và ngoại khoa thẩm mỹ đã được dân chủ hóa rộng rãi trong hậu bán thế kỷ XX với những can thiệp ít tốn kém hơn, nhẹ nhàng hơn, an toàn hơn. Đó luôn luôn là sự tìm kiếm hạnh phúc nhưng lần này xuyên qua sắc đẹp và đấu tranh chống lại những dấu hiệu bên ngoài của sự lão hóa. Người ta ước tính rằng gần 100.000 người mỗi năm, ở Pháp, nhờ đến những giải phẫu như vậy. Trong đó càng ngày càng có nhiều những người đàn ông. Sau những thái quá dẫn đến sự xuất hiện những gương mặt được sửa đổi theo cùng một kiểu (lifté stéréotypé), ngoại khoa thẩm mỹ mới từ nay mổ “sur mesure” (cá thể hóa). Các kỹ thuật ngoại khoa ngày càng được cá thể hóa và tùy theo từng trường hợp (sur mesure).
GƯƠNG MẶT. Đó là can thiệp biểu hiện (intervention emblématique) của ngoại khoa thẩm mỹ (chirurgie esthétique). Mặc dầu việc nhờ đến kỹ thuật lifting đã giảm nhiều nhường chỗ cho những phương pháp của y khoa thẩm mỹ (médecine esthétique), nhưng lifting vẫn là một kỹ thuật quy chiếu chống lại sự lão hóa của gương mặt. Vì không có tính chất cần thiết về mặt y khoa, chỉ căn cứ trên một sự lựa chọn cá nhân, vì vậy lifting không được đảm nhiệm bởi Sécurité sociale. Vậy hầu như không thể biết bao nhiêu phẫu thuật đã được thực hiện mỗi năm ở Pháp. Vài người đưa ra những con số biến thiên từ 30.000 đến 50.000, hoặc ¼ những động tác của ngoại khoa thẩm mỹ.
Các kỹ thuật được sử dụng đã phát triển nhiều để theo kịp những mong muốn của các bệnh nhân, cũng trên đà tiến triển. “Cứ 10 người thì hết chín người mong muốn trẻ lại mà không bị nhìn thấy. Vậy kết quả phải rất là tự nhiên. Đó là lợi ích của lifting biplan, được phổ biến nhất ngày nay. Phương thức này trước hết nhằm làm căng trở lại lớp cơ dưới da của hệ cơ-cân nông (smas : système musculo-aponévrotique superficiel) sau đó trải da lên trên, BS Vladimir Mitz (Paris), cha đẻ của kỹ thuật đã giải thích như vậy. Nhưng cứ mười bệnh nhân thì có một thật sự mong muốn biến đổi hình dạng của gương mặt. Khi đó phẫu thuật lóc (décollement) có thể được thực hiện sát xương chứ không phải ở mức các mô mềm, điều này cho phép ghép xương, trước khi dựng lại toàn bộ mặt nạ mặt (masque facial). Tuy nhiên, kỹ thuật rất nặng nề này đã trở thành hiếm hoi. Người ta ưa thích hơn kỹ thuật đầu tiên, được liên kết với ghép mô hay những chất làm đầy (“fillers”) có thể tan biến đi để làm biến đổi gương mặt được điều biến (le modelé du visage).” Một biến thể “nhẹ” hơn của lifting, thường bị chỉ trích, chỉ nhằm kéo các mặt sâu nhờ một lớp may để lại tại chỗ.
ƯU TIÊN GÂY TÊ TẠI CHỖ
Lifting đã trở thành một động tác toàn bộ, không chỉ bằng lòng với việc căng da trở lại. Với tuổi tác, gương mặt xệ xuống, nhưng cũng thường hõm xuống, và phương pháp làm đầy (comblement) có thể trở nên cần thiết. Ta làm tăng một thể tích ở nơi này, ta làm giảm bằng hút mỡ (liposuccion) ở nơi khác, ta làm đầy một nếp nhăn hay một rãnh mũi-cằm (sillon naso-génien) quá hõm xuống, ta mở một cái nhìn bằng cách đưa đuôi lông mày lên hay ta xóa bằng peeling ridule của môi... “Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên lifting cá thể hóa (à la carte), BS Sydney Ohana (Paris) đã đánh giá như vậy. Mỗi gương mặt già đi một cách khác nhau. Nơi vài người, sự xệ xuống có tính cách khúc đoạn (segmentaire) và chỉ liên quan đến đôi má xệ (bajoue), hay đuôi lông mày (queue du sourcil). Vậy có những động tác thích ứng với mỗi vùng: lifting vùng thái dương đối với lông mày (điều chỉnh đuôi của các lông mày, các patte d’oie và nâng các gò má lên), lifting giữa mặt (médio-facial) đối với rãnh mũi-cằm. Đôi khi, lifting rất tại chỗ và chỉ đòi hỏi một sự lóc tối thiểu được thực hiện bằng nội soi.” Thường nhất, can thiệp đòi hỏi từ một đến 4 giờ, được thực hiện với gây tê tại chỗ hay tại chỗ-vùng nhẹ, hiếm hơn với gây mê tổng quát.
Đối với BS Daniel Marchac (Paris), cũng có một kinh nghiệm dài lâu về ngoại khoa sọ-mặt (chirurgie cranio-faciale), lifting dùng để làm chậm sự lão hóa hơn là làm trẻ lại. “Một lifting được thực hiện tốt cho phép lợi được 10 năm, với điều kiện phẫu thuật không bị nhìn thấy. Tốt nhất, đó là một sẹo mổ ở vùng thái dương được che dấu bởi mái tóc, và một vết sẹo thẳng đứng được che dấu sau tai, như thế tránh làm đưa lên đường cắm (ligne d’implantation) của các sợi tóc.” Và đường râu nơi các người đàn ông, từ nay chiếm 10% các bệnh nhân. Ngoại khoa thẩm mỹ là một nghề thủ công trong đó trình độ lão luyện của phẫu thuật viên có tính chất quyết định: phát xuất từ những kỹ thuật y hệt nhau, mỗi người tùy theo kinh nghiệm của mình sẽ thực hiện sự biến đổi này hay biến đổi kia để đáp ứng với những chờ đợi của bệnh nhân.
SỰ CẠNH TRANH CỦA Y KHOA
Lifting thẳng đứng, bằng cách nâng gương mặt lên trên thay vì kéo nó ra sau, tránh hậu quả của gương mặt bị kéo gây nhiều khó khăn cho phẫu thuật. Nhưng chủ yếu chính sự phồn vinh của các kỹ thuật của y khoa thẩm mỹ ngày nay cạnh tranh với động tác ngoại khoa này. Những kỹ thuật này đã phát triển nhiều với sự xuất hiện ồ ạt của các sản phẩm làm đầy (produits de comblement) mà các thầy thuốc không phải ngoại khoa đã sử dụng một cách không phân biệt. “Điều chủ yếu, đó là đưa ra chỉ định đúng, BS Marchac đã nhấn mạnh như vậy. Những loại dược phẩm này có một vai trò nơi người phụ nữ trẻ. Chúng có thể mang lại thể tích nhưng sẽ không nâng cao gương mặt. Ngoài ra nếu chúng không được hấp thụ tốt, những mũi tiêm lập lại có thể gây nên sưng phù mặt, tạo các granulome, sau đó khó có thể điều chỉnh, ngay cả bởi ngoại khoa. Tốt hơn là nhờ đến những mũi tiêm các giọt mỡ bé xíu được lấy bằng hút mỡ trên bệnh nhân. Những giọt mỡ này còn có tác dụng trophique làm tái sinh lên các mô.”
Một động tác dành cho các thầy thuốc giải phẫu thẩm mỹ. Sau 8 đến 10 ngày khó khăn, kết quả của lifting được đánh giá tối thiểu một tháng sau phẫu thuật, và tác dụng của nó có thể kéo dài đến 10 hay 15 năm, trước khi được lập lại nếu cần.
Còn về phí tổn, tiền thù lao tự do và thay đổi tùy theo trình độ chuyên môn và sự danh tiến của phẫu thuật viên: từ 3.000 euro đến 8.000 euro thậm chí nhiều hơn, thêm vào đó còn phí tổn nằm viện. Trên thực tế, hiếm khi một lifting giá dưới 5.000 euro.
Ghi chú :
Lifting : can thiệp ngoại khoa nhằm điều chỉnh những hậu quả của sự lão hóa của mặt và cổ bằng cách “redrapage” những cấu trúc da bị giãn.
- Lifting cổ-mặt nhằm điều chỉnh sự xệ xuống của má và hủy bỏ cằm đôi (double menton).
- Lifting trán làm biến mất những nếp nhăn ở trán và những nếp nhăn nằm giữa các lông mày.
2/ NHỮNG SẢN PHẨM SỮA TỐT CHO TIM
Do giàu axít béo bảo hòa, các sản phẩm sữa càng ngày càng bị bỏ rơi nhường chỗ cho dầu thực vật, được cho là ít có hại cho các động mạch. Thật vậy, mối liên hệ giữa các axít béo bảo hòa và nguy cơ tim mạch, được xác lập trong những năm 1950 bởi nhà sinh học Hoa Kỳ Ancel Keys, đã dẫn đến sự ca tụng của chế độ ăn uống Địa Trung hải, ít các chất béo động vật. Tuy vậy, lúc kết hợp những kết quả của một loạt các công trình nghiên cứu độc lập, Peter Elwood (đại học Cardiff, Anh) đánh giá rằng sự tiêu thụ các sản phẩm sữa và các dẫn xuất được liên kết với một sự giảm tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch. Những người tiêu thụ nhiều sữa và các dẫn xuất của nó có ít hơn nguy cơ tử vong (-13%), tai biến mạch máu não (21%) và bệnh đái đường loại 2 (-15%). Cho đến nay, các nhà khoa học đã tập trung vào sự gia tăng của nồng độ cholestérol trong huyết thanh, được gây nên bởi vài axít béo bảo hòa hiện diện trong sữa, bỏ quên những tác dụng bảo vệ của những thành phần đặc hiệu khác. Một bước đầu tiên tiến về sự phục hồi những sản phẩm sữa? (SCIENCE ET VIE 1/2011)
3/ NHỮNG ẢO GIÁC ĐỘNG KINH CỦA CHOPIN
Manchester, tháng tám năm 1848, Frédéric Chopin trình bày bản sonate si mineur. Sau đó, ngay sau scherzo, ông ta vội vàng rời chiếc đàn dương cầm, “Tôi thấy hiện lên từ chiếc đàn dương cầm những vật chết tiệt đã xuất hiện vào một đêm sầu thảm trong một tu viện ở Majorque”, sau đó Chopin đã giải thích với những người thân của ông như vậy. Ngay mười năm trước đó, trong lúc ông lưu trú tại Majorque cùng với người tình của ông, George Sand, trong cái đồng thời là một cuộc lẩn trốn của đôi cặp tình nhân và là một nơi lưu trú chữa bệnh đối với người nhạc sĩ, vốn bị những bệnh nhiễm trùng mãn tính phổi làm ông cảm thấy sốt và mệt mỏi, ông đã thấy những vật kỳ lạ như thế. Trong cuốn sách hồi tưởng của mình, George Sand kể lại rằng tu viện “đối với Chopin đầy những vật làm khiếp sợ và các bóng ma”. Chopin, trong khi trời mưa to, không còn phân biệt được giấc mơ và thực tại và đã thấy mình “bị đuối trong một cái ao và tin là chính mình đã chết”.
Hai thầy thuốc Tây Ban Nha, Manuel Vasquez Caruncho và Francisco Branas Fernandez, thuộc các khoa quang tuyến và thần kinh của bệnh viện Lugo, đã phân tích các mô tả về các ảo giác của người nhạc sĩ nhằm nhận diện nguyên nhân khả dĩ, dưới ánh sáng của những kiến thức có được bởi y khoa cận đại. Họ công bố kết quả của các nghiên cứu trong British Medical Journal hôm nay. Các nhà nghiên cứu đã ghi nhận rằng Chopin nhớ rõ các cơn ảo giác của mình, thường xảy ra nhất vào buổi chiều và đôi khi trùng hợp với những nhiễm trùng cấp tính và sốt. Các ảo giác thị giác là phức tạp và hình ảnh của thần chết thường xuyên trở lại. Chẩn đoán? Chopin có lẽ bị bệnh động kinh khu trú ở thùy thái dương (épilepsie focalisée temporale). Loại động kinh này gây nên những ảo giác thị giác phức tạp, thường ngắn ngủi, phân đoạn và luôn luôn theo cùng thứ tự, đôi khi kèm theo triệu chứng xanh tái cà các cơn lo âu, “đúng như là những cơn lo âu mà người nhạc sĩ nói là đã chịu đựng”, trước khi qua đời sớm vào năm 39 tuổi. (LE SOIR 25/1/2011)
4/ CẮT BỎ TỬ CUNG ĐƯỢC LIÊN KẾT VỚI MỘT NGUY CƠ CAO BỊ UNG THƯ THẬN
Cắt bỏ tử cung (hystérectomie) là một trong những phẫu thuật thường được thực hiện nhất nơi phụ nữ. Những công trình nghiên cứu trước đây đã chỉ rõ rằng can thiệp được liên kết với một nguy cơ cao bị ung thư thận. Daniel Altman và các cộng sự viên (Karolinska Institute, Stockholm, Thụy Điển) đã thực hiện một công trình nghiên cứu trên dân chúng Thụy Điển để có một ý tưởng tốt hơn về mối liên hệ khả dĩ này. Họ đã tập hợp các dữ kiện có liên quan đến 181.601 phụ nữ đã bị cắt bỏ tử cung và 645.442 trường hợp chứng (contrôles). Thật vậy, những phụ nữ thuộc nhóm thứ nhất đã có một nguy cơ tăng cao một cách đáng kể hơn bị ung thư thận (tỷ lệ gây bệnh: 17,4 trường hợp/100.000 người so với 13,1/100.000 người trong nhóm kiểm chứng). Ngoài ra nguy cơ này phụ thuộc vào tuổi tác, với những con số cao nhất trong 10 năm sau can thiệp nơi những phụ nữ đã bị cắt bỏ tử cung trước tuổi 44.
Các tác giả kết luận rằng việc cắt bỏ tử cung được liên kết với một nguy cơ tăng cao một cách đáng kể bị ung thư thận nhiều hơn, nhất là nơi những phụ nữ bị phẫu thuật vào một lứa tuổi còn trẻ. “Vì khuynh hướng hiện nay là nhờ đến cắt bỏ tử cung ở một lứa tuổi trẻ hơn, nên những kết quả của công trình nghiên cứu này có thể là quan trọng”, các nhà nghiên cứu đã cảnh cáo như vậy. (LE JOURNAL DU MEDECIN 25/1/2011)
5/ SAU CÙNG TA HIỂU ĐƯỢC MỐI LIÊN HỆ GIỮA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG VÀ BỆNH ALZHEIMER
“Bệnh đái đường loại 1 làm dễ sự xuất hiện của bệnh Alzheimer, và bệnh đái đường loại 2 chủ yếu làm gia tăng nguy cơ bị bệnh trầm cảm”, nhà nghiên cứu Hoa Kỳ C.Ronald Kahn, thuộc Trung tâm nghiên cứu bệnh đái đường Boston (Hoa Kỳ) đã tóm tắt như thế. Lần đầu tiên ông đã mang lại lời giải thích cho tính nhạy cảm của những người bị bệnh đái đường đối với những bệnh thần kinh. Tính nhạy cảm này là do não bộ sản xuất kém cholestérol, một phân tử cần thiết cho sự hoạt động tốt của các tế bào thần kinh. Thật vậy, các nhà nghiên cứu đã cho thấy một sự giảm biểu hiện (expression) của các gène có liên quan trong sự tổng hợp của cholestérol trong những tế bào của não chuột bị thiếu insuline (hormone có tác dụng điều biến bệnh đái đường loại 1). Tuy nhiên việc tiêm insuline vào trong não cho phép phục hồi biểu hiện này. Vậy insuline tỏ ra cần thiết trong việc chế tạo (hoạt hóa các gène tổng hợp) cholestérol và nồng độ thấp của kích thích tố này nơi những người bị bệnh đái đường làm dễ sự xuất hiện những loạn năng thần kinh. Trước khi có thể dự kiến một điều trị phòng ngừa nào đó, C. Ronald Kahn bây giờ phải “xác nhận chính xác hơn những hậu quả thần kinh và hành vi của sự giảm cholestérol trong não bộ”, và xác nhận những kết luận của mình “bằng cách nghiên cứu trên các mô người”. (SCIENCE ET VIE 2/2011)
6/ MỘT HY VỌNG ĐỂ CHỐNG LẠI NHỮNG TIẾNG Ù TAI
Sự kích thích một dây thần kinh trong cổ làm biến mất nơi chuột những tiếng rít trong tai.
AUDITION. Mỗi người, một ngày nào đó, đã từng bị một cảm giác khó chịu khi các lỗ tai rít hay ù lên. Thế mà điều bất tiện chốc lát này có thể biến thành nỗi khổ dau dai dẳng đối với hàng ngàn người phải chịu đựng mỗi ngày, ngày và đêm.
Việc công bố trong Nature một công trình nghiên cứu cho thấy rằng ta có thể làm biến mất triệu chứng khó chịu này, nhưng đôi khi quan trọng, làm nảy sinh một niềm hy vọng chữa lành, mặc dầu đó chỉ là một thí nghiệm được tiến hành trên chuột. Các nhà khoa học đã loại bỏ những tiếng ù tai (acouphène) này bằng cách kích thích dây thần kinh phế vị nơi cổ của các động vật. Liệu pháp mới này có vẻ giúp các phần của não bộ có nhiệm vụ giải thích các âm thanh, tái lập chương trình để tìm lại trạng thái ban đầu của chúng và làm biến mất nguồn phát ra tiếng ù (bourdonnements) hay tiếng rít (sifflements). “Chúng tôi nghĩ rằng phần của não bộ xử lý các âm thanh, vỏ não thính giác (cortex auditif), sử dụng một số lượng quá lớn các tế bào thần kinh đối với một vài tần số và khi đó hệ thống bắt đầu bị rối loạn”, BS Michael Kilgard, thuộc đại học Texas, Hoa Kỳ), một trong những tác giả của công trình nghiên cứu, đã xác nhận như vậy.
“Công trình này rất là đổi mới. Rất là đáng lưu ý nhưng có lẽ sẽ phải cần được xác nhận nơi người”, BS Alain Londero, chuyên gia về những vấn đề này, thuộc khoa Tai Mũi Họng, bệnh viện Georges-Pompidou, đã đánh giá như vậy. Bởi vì không những hành vi của các động vật khiến ta nghĩ rằng chúng không còn nghe nữa những tiếng ù tai sau điều trị, nhưng “sự biến đổi này dường như lâu dài. Điều đó có nghĩa là ta sẽ có khả năng làm một bệnh nhân trở lại tình trạng trước đây mặc dầu vẫn có một thính giác luôn luôn bị biến đổi”, ông đã nói thêm như vậy. Mãi đến nay, nhiều điều trị đã được thử nghiệm, đi từ việc dùng thuốc đến những liệu pháp hành vi (thérapie comportementale), với các kết quả khác nhau.
MỘT CHỨNG BỆNH NGÀY CÀNG GIA TĂNG
Những tiếng ù tai là một triệu chứng còn nhiều điểm không được sáng tỏ. Các thầy thuốc chỉ có những phương pháp chủ quan để đo lường chúng. Một giai đoạn kế tiếp là sự đo khách quan nhờ điện não đồ hay những phương pháp chụp hình ảnh não bộ khác. Còn phải khám phá lý do chính xác của những âm thanh ký sinh này. Chỉ có điều gần như chắc chắn: chúng chứng tỏ có một thương tổn. Chứng ù tai là một chứng bệnh ngày càng gia tăng mà hàng ngàn bệnh nhân phải chịu đựng. “Khoảng 10% dân số kêu van bị những tiếng ù tai và, trong số những người này, 5 đến 10% là thật sự bị tật nguyền, hoặc khoảng 500.000 đến 600.000 người”, BS Philippe Peignard, bệnh viện Georges Pompidou đã giải thích như vậy. Điều từ lâu đã được xem như là một căn bệnh của những người già, đã từng bị những chấn thương âm thanh do chiến tranh hay nghề nghiệp, thì ngày nay đã ảnh hưởng lên những người trẻ hơn nhiều, chịu một môi trường âm thanh dày đặc hơn. Thí dụ ta biết rằng điều đó và có thể liên quan đến những người trẻ vẫn luôn giữ chặt các écouteur vào tai suốt cả ngày.
Nhiều hội nghị sẽ dành cho chứng bệnh ù tai trong khung cảnh tuần lễ âm thanh, trong đó một ngày sẽ dành cho não bộ và thính giác. (LE FIGARO 14/1/2011)
7/ NGỦ TRƯA DUY TRÌ TRÍ NHỚ
NEUROLOGIE. Cách tốt nhất để không quên một bài thơ hay một định đề mà ta vừa mới học có lẽ là làm một giấc ngủ trưa ngắn. Đó là điều vừa được khám phá bởi những nhà nghiên cứu người Đức, mà các công trình được công bố trong Nature Neuroscience tuần qua, có thể làm cho chúng ta khoan dung hơn đối với giấc ngủ ngắn vào buổi chiều, trong cái thế giới bị ám ảnh bởi thành tích và tính nhanh chóng.
Bjorn Rasch và các cộng sự viên thuộc đại học Lubeck (Đức) đã yêu cầu 24 người tình nguyện ghi nhớ 15 cặp bài thể hiện những hình ảnh các động vật và những dụng cụ thông thường. Bốn mươi phút sau, một nửa trong số những người tình nguyện, được giữ thức tỉnh, đã phải ghi nhớ một loạt các con bài hơi khác, còn nửa kia được quyền ngủ một giấc ngủ trưa ngắn trước khi phải ghi nhớ một loạt các con bài khác.
Các nhà nghiên cứu đã rất ngạc nhiên, những kẻ đã ngủ trưa có một số điểm tốt hơn, trung bình nhớ được 85% các con bài, so với 60% đối với những kẻ vẫn bị thức tỉnh. Sau một giấc ngủ chỉ 40 phút, một lượng quan trọng các ký ức đã được “téléchargé” trong một vùng của não bộ, ở đó “chúng không còn có thể bị trộn lẩn nữa bởi những thông tin mới được xử lý ở thùy hải mã (hippocampe)”, theo các nhà nghiên cứu. Đối với một trong những tác giả của công trình nghiên cứu, tác dụng có lợi của các giấc ngủ trưa lên sự củng cố trí nhớ có thể có những hàm ý đáng lưu ý đối với những hoạt động học tập tích cực, như việc giảng dạy các ngoại ngữ. (LE FIGARO 31/1/2011)
8/ HỘI CHỨNG BROWN-SEQUARD
Là người báo trước của nhiều bộ môn như sinh lý học của tủy sống hay các kích thích tố của quá trình tiêu hóa, Charles- Edouard Brown-Séquard là tác giả của những khám phá quan trọng và bị tranh cãi vào thời đại của ông, nhất là trong nội tiết học là lãnh vực mà ông đã góp phần khởi xướng. Tính tò mò của ông đã thúc đẩy ông sử dụng những phương pháp sáng tạo và táo bạo.
Vào năm 1817, khi Charlotte Séquard sinh ra ông, bà đã là góa phụ của một thủy thủ người Ái Nhĩ Lan-Hoa Kỳ, chết biển ít lâu sau khi cưới bà. Như thế, Charles-Edouard Brown-Séquard, sinh ra đời ở đảo Maurice (Pháp), được nuôi dạy bởi mẹ ông. Cùng với mẹ, ông đi Paris để trở thành nhà soạn kịch (dramaturge) nhưng rồi bị thất bại. Ông lao mình vào học y khoa và được đào tạo bởi những nhà lâm sàng nổi tiếng nhất thời đó. Vào năm 26 tuổi, ông bị mất mẹ đột ngột. Chẳng đồng xu dính túi, ông tiếp tục theo học bằng cách vay mượn, và nhận được mảnh bằng lúc 29 tuổi. Là nhà nghiên cứu hơn là nhà thực hành, ông là người có trực giác, tính tình kỳ quặc. Vì quan tâm đến vấn đề tiêu hóa, ông đã nuốt vào một bọt biển (éponge) ở đầu một sợi dây và rút miếng bọt biển bảo hòa dịch dạ dày này ra để phân tích! Luận án của ông loan báo sự khám phá mang tên ông (hội chứng Brown-Séquard), hội chứng thần kinh do nửa tủy sống bị thiết đoạn (hémisection de là moelle). Để phân tích các hậu quả của thương tổn này, ông cắt một phần cột sống lưng (colonne dorsale) của các con chim và động vật có vú và nhận xét sự bại liệt và mất cảm giác xúc giác và nhận cảm bản thể (sensibilité tactile et proprioceptive) cùng bên và sự biến mất của cảm giác nhiệt-đau đớn (sensibilité thermo-algique) bên đối diện. Ông cũng góp phần trong công cuộc khám phá hệ vận mạch bởi Claude Bernard, bằng cách chứng minh rằng sự kích thích những dây thần kinh giao cảm vùng cổ (sympathique cervical) làm cho các lỗ tai của con thỏ bị tái đi! Để tiến hành tốt các thí nghiệm của mình, ông thực hiện chúng trong căn hộ của ông, là nơi ông nuôi các động vật. Ông quên cả đói, chỉ nốc café và trải qua 18 giờ mỗi ngày để viết, đọc và thí nghiệm.
THIÊN TÀI DU LỊCH
Bị nhiễm trùng trong lúc phẫu thuật, bị bệnh và dính líu vào những hoạt động cách mạng, ông quyết định đi Mỹ mặc dầu chẳng biết một chữ tiếng Anh, chỉ với một bức thư giới thiệu của bạn ông, Pierre Broca. Ở Philadelphie, để kiếm sống, ông tổ chức những buổi hội thảo, làm người đỡ đẻ với giá hạ và dạy tiếng Pháp.
Ông cưới vợ và trở lại đảo Maurice vào năm 1854 để chứng kiến một nhận dịch dịch tả gây thiệt mạng 8.000 người. Để trắc nghiệm opium như là thuốc điều trị, ông nuốt chất mửa của bệnh nhân và mặc dầu dùng liều giới hạn laudanum, ông đã sống sót. Sau đó ông chấp nhận đề nghị ghế giáo sư ở Richmond (Virginie) nhưng ông không chấp nhận chế độ nô lệ và không thể làm cho cử tọa hiểu được mình. Sau 4 tháng, ông đã trở lại Paris, ở đây ông hành nghề như thầy thuốc chuyên khoa thần kinh. Ông chỉ mới 38 tuổi và luôn luôn muốn đi đây đi đó. Từ Royal College of Surgeons ở Boston rồi ở Londres, từ Paris đến Dublin, ông không ở lâu hơn 3 năm cho mỗi nhiệm sở mặc dầu được bầu vào Royal Society.
Ông vận động để được thí nghiệm trên động vật và mô tả các con thỏ như là “ít nhạy cảm đến độ chúng vẫn tiếp tục ăn mặc dầu ta đang cắt thịt chúng”. Góa vợ với một đứa con trai 12 tuổi, ông tái giá và trở lại Hoa Kỳ vì lẽ ông không thể được bổ nhiệm làm giáo sư ở Paris, do mang quốc tịch Anh. Ông thành lập một tờ báo mới, xây dựng một phòng thí nghiệm sinh lý ở Nữu Ước và được mời tham gia các hội nghị ở khắp nơi châu Âu. Vợ ông chết ít lâu sau khi đứa con gái ra đời, nhưng ông lại còn tái giá lần nữa.
NHÀ NỘI TIẾT HỌC BÁO TRƯỚC.
Sau cùng, ông được quốc tịch Pháp vào năm 1878 và được bổ nhiệm làm giáo sư y khoa thí nghiệm (médecine expérimentale) ở Collège de France, chức vụ mà ông sẽ giữ cho đến khi ông qua đời. Cũng được bầu vào Académie des Sciences, và ông cũng quan tâm đến các tuyến thượng thận và xác nhận rằng chúng cần thiết cho sự sống. Ông khám phá những chất nội tiết (sécrétions intérieures) của các tuyến, gây tác dụng ở xa bằng cách khuếch tán trong máu. Đứng trước những bệnh nhân không thể nuốt được, ông đề nghị tháo bằng thức ăn (lavements alimentaires), gồm có 2/3 thịt bò sống và 1/3 tụy tạng heo nhằm khuếch tán cái để tiêu hóa. Vào năm 72 tuổi, ông làm một báo cáo giật gân cho Société de Biologie, trong báo cáo này ông giải thích bằng cách nào ông đã làm trẻ lại “khả năng nam tính” (virilité) của ông bằng cách tiêm vào dưới da mình một chất dịch trích từ các tinh hoàn của các con cobaye và các con chó vừa mới bị giết chết ! Điều đó có vẻ ngông cuồng nhưng đó là chứng thư khai sinh ra môn nội tiết học và opothérapie. Ông mất năm 77 tuổi, nổi tiếng vì đã khám phá các hormone hơn là hội chứng mang tên ông (syndrome de Brown-Séquard). (LE GENERALISTE 20/1/2011)
9/ U XƠ TỬ CUNG : ĐIỀU TRỊ MỚI BẰNG SIÊU ÂM
GS Henri Marret, thầy thuốc ngoại sản, bình luận những kết quả dương tính của một công trình nghiên cứu mới đây về sự tiến bộ này.
Hỏi : Làm sao ông có thể giải thích cho một bệnh nhân một u xơ nghĩa là gì ?
GS Henri Marret. Tôi nói với bệnh nhân rằng đó là một khối u hiền tính, điều này phân biệt với một ung thư, và rằng khối u đó được tạo thành từ mô sợi (tissu fibreux) và cơ của tử cung. Tôi cũng giải thích với bệnh nhân này rằng những khối u hiền tính này là thường xảy ra, vì lẽ cứ ba phụ nữ thì có một bị một hay nhiều u xơ trong suốt cuộc đời của mình.
Hỏi : Làm sao đảm bảo rằng đó đúng là một u xơ chứ không phải là một ung thư ?
GS Henri Marret. Trước hết bằng siêu âm, một thăm khám không thể tránh được. Rồi, trong trường hợp nghi ngờ, bằng IRM (cũng được sử dụng khi thể tích đặc biệt quan trọng hay khi có nhiều u xơ).
Hỏi : Những triệu chứng nào phải được báo động ?
GS Henri Marret. Xuất huyết, đau bụng hay một cảm giác vướng ở bụng, một nhu cầu đi tiểu thường xuyên, một tình trạng vô sinh. Chỉ có những khối u đã gây nên những triệu chứng mới cần điều trị bởi vì trong nhiều trường hợp, các bệnh nhân không hề kêu ca gì cả. Và vì những khối u hiền tính này thoái biến một cách ngẫu nhiên vào thời kỳ mãn kinh, nên khi đó can thiệp thường vô ích.
Hỏi : Để điều trị những u xơ này, có nhiều khả năng. Chúng ta hãy nói về những phương pháp ngoại khoa : trong những trường hợp nào ta dự kiến chúng ?
GS Henri Marret. Những kỹ thuật được đề nghị sẽ tùy thuộc vào ước muốn có con. Đối với các u xơ to lớn hơn 10 cm, phải dự kiến hoặc là cắt bỏ tử cung (hystérectomie), kỹ thuật này có ưu điểm là tránh mọi tái phát, hoặc là một ngoại khoa bảo tồn (myomectomie). Tuy nhiên có những trường hợp trong đó cắt bỏ tử cung không thể tránh được: thí dụ khi có nhiều u xơ to lớn.
Hỏi : Về những kỹ thuật được gọi là vi xâm nhập, bởi vì không phải là ngoại khoa, những kỹ thuật nào được đề nghị nhiều nhất ?
GS Henri Marret. Trong số những điều trị khác nhau được hiệu chính trong những năm qua ở Pháp, 3 điều trị được đề nghị. Thứ nhất là làm nghẽn mạch (embolisation) các động mạch tử cung, nhằm làm hoại tử các u xơ dưới 10 cm và những u xơ nằm ngoài xoang tử cung. Điều trị này được áp dụng cho những khối u đơn độc cũng như nhiều khối u. Phương pháp thứ hai là soi tử cung (hystéroscopie) (được thực hiện bằng đường tự nhiên với một ông nội soi), để điều trị những u xơ nhỏ dưới 4 cm lần này nằm trong xoang tử cung. Phương pháp thứ ba là nội soi ổ bụng (coelioscopie), được thực hiện bằng một đường xẻ nhỏ để đưa vào một ống nội soi (laparoscope). Phương pháp này được chỉ định đối với những u xơ dưới 10 cm không nhiều và nằm không quá sâu trong tử cung.
Hỏi : Kỹ thuật vi xâm nhập mới nhất được sử dụng từ ít lâu nay là gì ?
GS Henri Marret. Đó là phương thức được mệnh danh là “exablate” nhằm phá hủy các tế bào của u xơ bằng một nhiệt lượng từ 70 đến 80 độ C nhờ các siêu âm. Điều trị này được thực hiện trong một máy IRM (đầu nằm ngoài máy ), nhờ nó có thể kiểm soát thường trực các siêu âm được phát ra. Bệnh nhân, nằm trong máy, nhận xuyên qua da, những siêu âm được hội tụ và hướng trực tiếp trên u xơ. Buổi diều trị kéo dài gần 3 giờ. Chính những thầy thuốc X quang can thiệp (radiologue interventinnel) thực hiện điều trị này. Phương thức mới này được dành cho những khối u dưới 10 cm. Nó có những chỉ định rất chính xác: các u xơ đơn độc nằm phía trước từ cung, được chọn lọc bởi IRM.
Hỏi : Những kết quả thu được với những điều trị này ?
GS Henri Marret. Với cắt bỏ tử cung để tránh mọi tái phát, tuy nhiên ta quan sát thấy 2% những biến chứng nghiêm trọng (khối máu tụ, các vết thương bàng quang, viêm tĩnh mạch và vài ảnh hưởng tâm lý. Can thiệp này có những bất tiện là cần một thời gian nhập viện từ 3 đến 5 ngày và một tháng nghỉ việc. Với ngoại khoa bảo tồn (ta giữ lại tử cung), tỷ lệ tái phát lên đến từ 20 đến 25% trong 5 năm. Và lại nữa ở đây phải tính từ 3 đến 5 ngày nhập viện. Sau một embolisation (làm nghẽn mạch), ta ghi nhận tỷ lê tái phát 15%, đòi hỏi một điều trị khác. Điều trị này gây nên những đau đớn cần nhờ đến morphine trong 24 giờ, rồi sử dụng thuốc giảm dau và một thời gian nghỉ việc 1 tuần, hiện nay kỹ thuật này không được khuyến nghị lúc muốn có thai. Nội soi có bất tiện là gây nên một vết sẹo mổ trên tử cung, làm dễ vỡ đến độ đôi khi cần mổ dạ con lấy thai (césarienne). Với kỹ thuật này, ta ghi nhận tỷ lệ tái phát từ 20 đến 25%. Với kỹ thuật sau cùng bằng siêu âm, được sử dụng ở Pháp trong protocole de recherche ở CHU de Tours, trên 75 bệnh nhân chúng tôi đã thu được 65% những kết quả tốt, điều này rất là hứa hẹn. Cùng tỷ lệ với tỷ lệ được báo cáo bởi những công trình nghiên cứu quốc tế được thực hiện trên 4000 bệnh nhân. (PARIS MATCH 20/1-26/1/2011) Đọc thêm :
TSYH số 45, bài số 1 ; TSYH số 131, bài số 6 ; TSYH số 204, bài số 2
10/ VIỆC ĐẶT CÁC IMPLANT RĂNG TRỞ THÀNH CHUYỆN THÔNG THƯỜNG
Những tiến bộ công nghiệp học từ nay cho phép các thầy thuốc ngoại khoa tìm được góc tốt để đặt implant vào trong xương hàm.
ODONTOLOGIE. “Trong khi đặt các implant răng, navigation chirurgicale cho phép chirurgien-dentiste theo dõi trực tiếp trên một màn ảnh máy vi tính, vị trí chính xác của các dụng cụ trong xương hàm của bệnh nhân, BS Philippe Khayat, nha sĩ thực hành Paris đã chỉ rõ như vậy. Công nghệ học này, phát xuất từ ngoại tổng quát, được thêm vào những dụng cụ mới mà từ nay các chirurgien-dentiste có sử dụng để cải thiện việc đặt các implant và làm giảm những hậu quả của can thiệp bằng cách hạn chế các đường xẻ lên lợi răng. Những tiến bộ của chụp hình ảnh, cặp với việc xử lý vi tinh các hình ảnh, cho phép các nhà phẫu thuật nha khoa chuẩn bị sự thiết đặt và nhắm đích tốt hơn những động tác của mình. Những khả năng mới dành cho các nha sĩ thực hành được đào tạo chuyên khoa implantologie và dần dần được trang bị những loại máy móc này, mặc dầu phí tổn cao, nhưng đáp ứng với tiến triển hiện nay của các thực hành. “Việc đặt implant răng trở thành chuyện thường tình, nhất là khi những chiếc răng bao quanh chúng lành mạnh và khi ta muốn tránh gọt đẽo chúng để đặt một cầu răng (bridge)”, BS Daniel Etienne, thuộc service odontologie parontologie, bệnh viện Hotel-Dieu, Paris, đã nhấn mạnh như vậy.
Thật vậy, một implant răng là một chiếc đinh ốc, thường bằng titane, được đặt trong một lỗ được trổ trong xương hàm và trên đó, sau một thời gian thay đổi, được gắn một chiếc răng giả. Thật vậy, xương của hàm có khả năng tự tái tạo chung quanh implant, và implant này sau đó thật sự trở thành một rễ nhân tạo (racine artificilelle) cho răng giả (prothèse dentaire), có khả năng chịu đựng tất cả những cố gắng liên quan với động tác nhai trong nhiều năm trời. “Sự khám phá của quá trình hội nhập xương (ostéointégration) đã là một cuộc cách mạng thật sự: ta có thể thay thế hoàn toàn một chiếc răng hay cả một hàm răng và trả lại cho bệnh nhân khả năng nhai, cười, nói một cách bình thường, BS Hadi Antoun, nha sĩ thực hành thực hành ở Paris đã nhắc lại như vậy. Cái khó chủ yếu là tìm góc lý tưởng để đặt implant, và như thế để đặt răng giả, hài hòa với phần còn lại của bộ răng. Kinh nghiệm cho phép các nhà giải phẫu nha khoa thường thực hiện những can thiệp này, bằng tay không đặt đúng implant, nhưng mặc dầu người nha sĩ có ít kinh nghiệm hơn hay trong vài trường hợp khó khăn, từ nay ông ta có thể sử dụng một guide chirurgical được thiết kế bởi một máy vi tính để hướng dẫn sự khoan xương. Thật vậy, scanner, kết hợp với một máy vi tính, cho phép thu được một hình ảnh 3 chiều của xương hàm dưới của mọi bệnh nhân.
ÍT CHỜ ĐỢI HƠN
Một máy X quang mới, sử dụng một chùm các tia hình nón, từ nay trang bị nhiều phòng khám bệnh nha khoa: máy này cải thiện sự an toàn của bệnh nhân, bởi vì nó làm giảm lượng các bức xạ cần thiết để tạo một hình ảnh hoàn toàn của xương hàm. Nhờ các chất chỉ dấu cản quang (marqueur radio opaque) được đặt trong một chiếc rãnh, có thể bắt chước nơi đặt tương lai của các implant. Khi đó ta có thể kiểm tra rằng các implant được đặt đúng và tạo một guide chirurgical nhằm định hướng máy khoan của người phẫu thuật. “Tuy nhiên nhiều phẫu thuật viên vẫn dè dặt đối với những phương cách này, bởi vì những hình ảnh có thể thiếu chính xác, nhất là khi miệng đã chứa kim loại, điều này khá thường xảy ra. Với một hình ảnh ngay cả hơi không chính xác, guide chirurgical không hoàn hảo và vị trí của implant không luôn luôn được thỏa mãn”, BS Philippe Khayat lấy làm tiếc như vậy. “Khi đó chính kinh nghiệm của phẫu thuật viên cho phép điều chỉnh những lệch lạc nếu có.”
Tuy nhiên, việc làm giảm các săn sóc hậu phẫu và tính chất đáng tin cậy của việc đặt mà các dụng cụ mới này mang lại, dường như đầy hứa hẹn, nhất là đối với các chirurgien dentiste chuyên về implantologie. Kết hợp với sự phát triển của những implant mới, hòa nhập một cách nhanh chóng vào trong xương, các công nghệ mới đã cho phép thu giảm thời gian chờ đợi giữa lúc đặt implant và lúc cố định răng giả vĩnh viễn (prothèse définitive), đã chuyển từ 6 đến 12 tuần thay vì từ 4 đến 6 tháng.
Việc xuất hiện của các implant và những tiến bộ được thực hiện trong việc thiết đặt chúng hoàn toàn xét lại nguyên tắc theo đó những chiếc răng mới phải được mang bởi những “chiếc răng mà ta phải gọt đẽo vì mục đích này”, GS Paul Mariani, thuộc phân khoa odontologie Marseille đã nhấn mạnh như vậy. Một cuộc cách mạng mà Bảo hiểm bệnh tật đã chưa xét đến bởi vì Tổ chức bảo hiểm chỉ bồi hoàn một phần phí tổn của các bride, nhưng chẳng bồi hoàn chút nào các implant. (LE FIGARO 31/12/2011)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Share

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More